Thần chú là một âm thanh thăng hoa , có thể tạo một sự phản ứng đặc biệt trong thân tâm của con người , thần chú có một tần số rung động trong ethers ,..

Thần chú (còn gọi là chú ngữ- mantra,chanting) là âm thanh kích họat sự thăng hoa khi tập trung tinh thần phát khởi, sẽ tạo nên hiệu ứng đặc biệt trong thân tâm của con người, thần chú có một tần số và tầng thức rung động trong trường năng lượng vi sóng (ethers), lắng nghe thần chú khi ngồi thiền, ta có thể hội nhập vào ánh sáng của nội tâm. Tần số và tầng thức rung động đồng pha (cùng loại) , có thể được tác động kích họat bởi một hoặc nhiều người khác, để đưa tâm thức của ta lên những cảnh giới cao của tâm thần, công năng mạnh, yếu tùy thuộc vào năng lượng của người tác động kích họat hoặc đối tựong, đồng thời có thể làm khai mở những năng lượng đặc biệt (huyền năng). Thần chú quan trọng ở nơi âm thanh + sự tập trung phát khởi, chớ không ở nơi ý nghĩa, khi dịch ra ngôn ngữ khác, thì thần chú không còn tác dụng nữa .

Chú ngữ ( Mantra ) là âm thanh của tinh thần , sự khác nhau giữa âm thanh vật chất và âm thanh tinh thần là Hình tư tưởng ( thought form ) độ dài sóng ( wavelength) , tần số ( frequency) và môi trường truyền dẩn ( medium ) .

Chú ngữ là một dụng cụ dùng để xóa bỏ ( deprogramming ) hay tái tạo những dữ kiện ( reprogramming ) trong máy điện nảo tinh thầncủa ta . Chú ngữ có hiệu lực cho việc tự kỷ ám thị , bởi việc lập lại một số đoạn văn soạn sẳn có ý nghĩa và mang một mục tiêu mà ta muốn đạt đến , để niệm lên , hầu mang ý niệm nầy , huân tập để cấy vào tiềm thức , mà từ đó nó ảnh hưởng đến ta , trong những hành động hướng về mục đích mà ta đã chủ ý ; Hiệu lực thứ nhì là chú ngữ có thể , tạo sự rung động cộng hưởng đến tâm thân ta , hầu trị bệnh hay đạt đến một mục đích nào đó .

Âm thanh có thể mang làn sóng của hình ảnh truyền đạt đến ta ,nhằm khơi mở sự cảm tri của ta . Mổi âm thanh có những dạng rung động cộng hưởng với những vật khác như : màu sắc , tinh thể ( crystals ),hình thể(biogeometry) ,ngũ hành (elementals)

Với một cách thở đặc biệt , ta có thể tạo ra một hình ảnh sáng tạo ; Sự niện chú ngữ AUM cho một số không khí thoát ra ở xoang mủi sẽ tạo ra âm thanh AUM , sẽ tạo ra sự rung động ở xoang mủi , sự rung động nầy lan truyền đến các sàng nảo thất của nảo bộ ( four ventricles of the brain ) . Sự niệm chú ngữ là một công cụ dùng để tập trung , sự chú ý vào một điểm , làm đóng lại những hoạt động của ngũ quan bên ngoài và hệ thống đối giao cảm ( sympathetic system ) để tạo điều kiện cho hệ thống trực giao cảm ( parasympathetic system ) hoạt động , hầu đưa ta đi sâu vào đại định .

Sự lập lại chú ngữ , trong một thời gian , sẽ cộng hưởng trong tâm ta , đến một lúc nào đó , ta không cần phát âm để đọc chú ngữ , mà chú ngữ sẽ tự động vang lên trong tâm ta , và chỉ một mình ta nghe được .

Khi đọc trì chân ngôn thì ta dể nhập định hơn , ý nghĩa của chân ngôn thường hướng về thành tựu và khấn nguyện , một ước nguyện nào đó , sự lập đi lập , lập lại một chân ngôn nào đó , thường có tác dụng ám thị cho ta dần dần dể đi vào nhập định , những người trì tụng thần chú có khả năng cao , niệm những chân ngôn có ý nghĩa , mang những nguyện vọng hiện thực , có thể biến sự tụng niệm những câu chân ngôn nầy , thành những tín hiệu có khả năng , phóng phát ra ngoài , tùy theo công việc như trị bệnh hay tôn giáo v..v…

Mặt khác , những mẩu tự chủng chân ngôn như AUM , khi tụng đọc lên theo một phương pháp đặc biệt , có thể làm cho bên trong nội tạng của thân thể rúng động , rung lên , có tác dụng đã thông kinh mạch và phóng phát một nội lực nào đó của cơ thể , hoặc có thể gây tác dụng tạo một sự tác động đến âm ba bên ngoài mà làm tan vở hay tiêu diệt một chướng ngại vật nào đó .

Dùng thần chú âm thanh , tụng đọc cho một trung tâm năng lực nào đó , để làm cho trung tâm nầy rung lên , cộng hưởng để phụ trợ và tăng thêm cường độ , để rồi dùng từ luân xa nầy như cái loa , hay như là một nơi phát ra năng lực để hướng đến mục tiêu , mà phóng phát năng lực , để tạo một kết quả mà mình mong muốn .

Ở một lảnh vực trì chú cao hơn , người trì chú có thể quán tưởng , một chú ngữ nào đó , kèm theo một loại màu sắc nhất định , sau đó sự trì chú và quán tưởng nầy biến đổi hình dạng theo một qui tắc nhất định , đồng thời phối hợp với sự điều tức , sự lên xuống của nội khí , có thể làm sản sinh một trạng thái khí công hay một hiệu năng nào đó , có hình thức rất là đa diện .

Những tín hiệu của chú ngữ có thể làm sản sinh ra , nhiều hiệu ứng của khí công , có sự quan hệ với âm ba rất là mật thiết .

Chú ngữ lợi dụng , tính xuyên thấu và chiết xạ của thanh ba , để vận hành nội khí , hầu đạt đến , ý đến , âm thanh đến và khí tới : Nói một cách khác , là dùng âm thanh để mang dẩn khí lực , khí lực đi theo ý niệm , và âm thanh ra vào . Đó là đặc điểm đặc thù của việc tụng niện thần chúhay là tin tức mả vậy .

Do đó , Mật Tông Tây Tạng đã lợi dụng tính xuyên thấu , tính khúc xạ của âm thanh , thần chú để mang dẩn nội khí luân lưu trong cơ thể , hầu đạt đến kết quả , khi ý đến đâu , thì khí đến đó , âm thanh đến đó ; dùng ý để dẩn khí , dùng khí để ém âm thanh ; sự phối hợp của âm thanh và khí lực sẽ hình thành một loại hợp lưu , có mật độ và tầng số rung động cao , có khả năng bài trừ những khí nặng trược , hấp thu dưởng khí , giúp ích cho sức khõe và trị liệu .

Những vị có trình độ thiền định cao nói rằng , ấn quyết biểu thị một loại ý nghĩa nhất định , đồng thời tương ứng với sự phát tín hiệu đến một kinh mạch nào của cơ thể , để hổ trợ cho việc khởi phát nội khí và hình thaǹh một ý niệm nào đó .

Pháp môn tu trì luyện tập , chủ yếu về ấn quyết của Mật Tông , thường là dùng ý để dẩn ánh sáng , dùng ba hình ánh sáng của ba màu trắng , đỏ , lam để làm thành những dòng quang tử , đem trường khúc xạ của ánh sáng vũ trụ , dùng ý niệm mà đưa chúng vào bộ đầu , sau đó lại phân phối đi khắp cơ thể .

Trong khi ngồi thiền và bắt ấn quyết , giúp cho người luyện tập , bắt được sự liên lạc với sáu kinh , hổ tương , giao lưu khí lực , có lợi cho việc thanh tịnh thân tâm , làm khai thông phế khí , làm mạnh ruột non , thông tam tiêu , giúp tăng cường năng lực cho cơ thể , thích ứng với ngoại giới ; Khí lực và ánh sáng trong lúc quán tưởng sẽ giúp Tinh – Khí – Thần bên trong cơ thể được thăng hoa và kiện toàn ; dương khí và sinh lực khí được đưa lên , sưởi ấm và bồi dưởng cho ngũ tạng lục phủ ; khi sự luyện ý và khí được tinh chuyên , thì máu huyết sẽ đầy đủ , tinh thần sẽ minh mẩn ; máu huyết của ngũ tạng lục phủ được sung mản , con gnười sẽ được luôn khõe mạnh và kéo dài được tuổi thọ . Ta để những ảnh hưởng của những tầng số rung động lên trên cơ thể con người có thể đưa ta vào trạng thái đại định ( Samadhi – Altered states of conciousness ) và năng lượng của hỏa hầu , lửa tam muội ( Kundalini ) có thể được phóng thích , do sự kích thích của hoàn cảnh chung quanh , bằng những rung động của âm ba và những làn sóng điện từ khởi động .

Khi hành giả đại định , cột xương sống của họ sinh ra sinh điện từ ; và trường điện từ nầy sẽ được phóng ra từ đầu của hành giả , như là một cột trụ ăng ten ( antena ) , nó tạo ra sự cảm ứng , tác dụng hổ tương với điện và từ trường có sẳn chung quanh . Đầu hành giả đồng thời là một trụ ăng ten phát sóng , có thể điều chỉnh , phát và thu những tầng số rung động cộng hưởng hai chiều , lửa hỏa hầu có thể phát triển trong hệ thống thần kinh , sau đó cảm ứng , cộng hưởng với điện từ bên ngoài cơ thể để tạo ra nhiệt và lửa bốc cháy trong cơ thể .

Theo Ajit Moonkerjee : Âm nhạc và khiêu vũ có thể làm khơi dậy luồng lửa hỏa hầu nầy ; trong đầu , xương sống và bắp thịt có chứa nhiều chất Potassium . Tầng số năng lượng sóng điện của radio có thể làm bật cháy khí Oxygen trong phổi

http://www.phattu.com/showthread.php?t=28285&s=4ece91b0c501fc5eff3007260bc220e4