Sức mạnh của âm nhạc

Sức mạnh của âm nhạc

Tiếng hát ru là liều thuốc ngủ đối với trẻ nhỏ, nghe bản nhạc êm đềm sau một ngày lao động vất vả, con người cảm thấy toàn thân thư thái, trái tim đập nhẹ nhàng và đầu óc trở nên thanh thản. Vì sao âm thanh có nhiều sức mạnh như vậy ?

Con người nguyên thuỷ ở đâu cũng nghe thấy âm thanh. Con người chìm đắm trong âm thanh tự nhiên. Tiếng gió thổi, tiếng lá cây xào xạc, tiếng gà gáy, tiếng chim hót… Rất lâu trước khi tự mình soạn nhạc, từ thuở khai thiên lập địa, con người đã là một phần của bản nhạc thiên nhiên.

Trở thành một bộ phận cấu thành của bản nhạc vĩ đại ấy, con người còn một lý do nữa: bản thân cũng là nguồn gốc sinh ra một loại âm thanh. Âm thanh nhiều tuổi nhất-được đánh giá chủ yếu bởi sức mạnh thông tin của nó-chính là tiếng khóc chào đời.

Cùng với sự phát triển của nền văn minh, tỷ lệ giữa các âm thanh tự nhiên và âm thanh do con người tạo ra cũng thay đổi. Càng gần thời hiện đại, càng ít tiếng vọng tự nhiên. Trong những nền văn hoá lạc hậu, âm thanh tự nhiên chiếm tới 69 phần trăm tất cả âm thanh đập vào tai con người.

Những tiếng động xuất phát từ máy móc và công cụ sản xuất thời đó chỉ chiếm khoảng trên dưới 5 phần trăm. Ngày nay mối tương quan ấy gần như quay ngược hẳn-chỉ có 6 phần trăm chảy từ các nguồn tự nhiên, và tới 68 phần trăm-là âm thanh do máy móc và công cụ tạo nên.

Mozart, hoàng đế

Âm nhạc cổ điển được sử dụng để loại bỏ stress, kích thích trí tuệ và làm dịu nỗi đau. Đó là công cụ cơ bản của những nhà liệu pháp âm nhạc, tức các chuyên gia chữa bệnh bằng âm thanh. Âm thanh có thể kích động hoặc an ủi. “Có tác dụng kích thích rõ rệt là giai điệu giải phóng ham muốn nhảy múa, vỗ tay hoặc ôm ấp nhau.

Khá nhiều trong những tác phẩm loại này có giai điệu gần với nhịp đập hàng ngày của trái tim hoặc nhanh hơn một chút. Như giải thích của chuyên gia âm nhạc trị liệu nổi tiếng Ba lan, TS. Vlađisoap Pitak, có tác dụng an thần là dòng nhạc êm dịu và giàu nhạc điệu, không có những âm hưởng mạnh mẽ, những thay đổi độ cao âm thanh đột ngột, còn nhịp độ và giai điệu làm chúng ta liên tưởng đến hoạt động của trái tim trong lúc ngủ.

Hoà nhạc thay vì cà phê

Ngay từ những năm 50, thế kỷ trước, chuyên gia Tai-Mũi-Họng và Thần kinh học Pháp, GS. Alfred Tomatis đã khẳng định, tai người không chỉ là cơ quan thính giác. Nó còn thực hiện nhiệm vụ tạo năng lượng cung cấp cho vỏ não.

Kết quả công trình nghiên cứu của GS. Tomatis đã chứng minh rằng, những âm thanh có tần số cao có tác dụng cải thiện tính tích cực của trí tuệ, còn những âm thanh tần số thấp-có tác dụng ngược lại, thường mang lại sự mệt mỏi. Theo GS. Tomatis, những âm thanh cao thường thấy trong những bản dân ca miền núi châu Âu hoặc một số tác phẩm của thiên tài âm nhạc Mozart .

Tác dụng tích cực của những tác phẩm âm nhạc Mozart đối với tình cảm con người đã biết từ lâu và đến cuối thế kỷ XX được giới chuyên gia đặt tên là “hiệu ứng Mozart”. Dù lập luận âm nhạc này là yếu tố kích thích sự gia tăng vận chuyển các xung điện thần kinh không thuyết phục được tất cả giới nghiên cứu, song mọi người đều thừa nhận rằng “quả thực những tác phẩm của Mozart có tác dụng nhất định”.

Nó tạo điều kiện thuận lợi cho lao động sáng tạo, làm hài hoà hoạt động của trái tim và loại bỏ stres. Thậm chí có một công trình nghiên cứu còn kết luận rằng, đến cây cỏ cũng phát triển nhanh hơn, một khi “được nghe” nhạc của thiên tài.

Nhạc sỹ nổi tiếng Ba lan, bà Barbara Romanowska, nghệ sỹ chuyên tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc có tác dụng cải thiện sức khoẻ, tác giả cuốn sách viết về tác dụng chữa bệnh của âm nhạc khẳng định rằng, ngay việc chọn nhạc để nghe của mỗi người cũng không phải là việc làm tình cờ.

Hoàn toàn theo cảm tính, chúng ta thường chọn tác phẩm, trong đó bản thân tìm thấy tần số rung động của chính mình. Mỗi người có tần số âm thanh của riêng mình, làn sóng của riêng mình.

Các chuyên gia âm nhạc trị liệu nhất trí rằng, âm nhạc là ân nhân của chúng ta, một khi nó mang lại cảm giác thú vị cho lỗ tai. Những tác phẩm độc hại-trái lại, có thể làm chúng ta cáu giận, bởi chúng làm rối loạn nhịp điệu nội tâm. Điều quan trọng, là chỉ nên nghe những tác phẩm, mà bản thân thực sự yêu thích, bởi ai cũng có thể tự soạn cho mình những “đơn thuốc âm nhạc”: để có giấc ngủ ngon, để an thần hoặc gây không khí vui vẻ.

Tác dụng chuyên trị của một số “biệt dược âm thanh”

A-Cải thiện không khí:

  1. Beethoven-bản symfoni số một, chương III và IV
  2. Chopin-Polonez dành cho violông, Mazurki. chương VII, bản số IV
  3. Chaikôpski-vanxơ từ suit “Hồ thiên nga”

B-Thư giãn:

  1. 1-L.Beethoven-phần một Sonat ánh trăng
  2. 2-W.A. Mozart-hoà tấu clanet A-dur KV 622 adaggio
  3. 3-P. Chaikôpski-nokturn d-moll

C-Tập trung suy nghĩ

  1. Vivaldi-sáu hoà tấu flet chương VI
  2. Haendel-hoà tấu
  3. Bach-hoà tấu G-dur flet và dàn nhạc dây.

Nguồn tin: Tien_Phong

Thiền định dùng nhiệp sóng âm của não

Thiền định dùng nhiệp sóng âm của não

Phương pháp thiền định bằng cách nghe âm thanh có chứa nhịp song âm là một kỹ thuật hiện đại tổng hợp hai khám phá lớn của những nhà bác học nghiên cứu về lãnh vực này từ nhiều thế kỷ trước.

Khoảng giữa thế kỷ 17, ông Christian Huygens là một nhà bác học vật lý nổi tiếng người Hòa Lan tình cờ tìm ra một hiện tượng tự nhiên trong trời đất. Ông mô tả rằng khi nhiều đồng hồ quả lắc được để gần nhau, sau một thời gian nào đó, các quả lắc sẽ lắc đồng nhịp, có thể khác chiều nhưng luôn luôn có chung một tần số dao động.

Ông cho rằng thiên nhiên luôn luôn có sự hài hòa, khi hai hệ thống được kề cận nhau, vật đi nhanh sẽ giảm tốc độ, và vật đi chậm sẽ tăng theo, để được nhịp nhàng có cùng một chu kỳ. Hiện tượng này có thể lập lại để quan sát và chứng minh dễ dàng nên nhà bác học này đã gọi khám phá này là sự đồng nhịp (entrainment).

Não bộ của con người lúc sống luôn luôn phát ra những luồng điện rất nhỏ có tần số rõ rệt và có thể đo được chính xác với máy điện não đồ (EEG, Electroencephalography). Khoa học hiện đại phân loại năm tần số chính của những dao động trong não bộ sinh ra những luồng điện này và có tên là: sóng delta, theta, alpha, beta, và gamma.

Delta – Sóng delta có tần số không quá 4 Hz. Loại sóng này có biên độ rất cao và thông thường hay xuất hiện trong não bộ người lớn khi ngủ say không mộng mị hay khi bất tỉnh. Trẻ em khi ngủ say đôi khi cũng có. Ở người lớn, loại sóng này thông thường xuất hiện tại não bộ phía trước, và tại não bộ phía sau ở trẻ em.

Theta – Sóng theta có tần số từ 4 đến 7 Hz. Loại sóng này được thấy ở các trẻ em nhỏ. Sóng theta xuất hiện khi buồn ngủ, trong những khi được thư giãn hoàn toàn nhưng vẫn còn tỉnh thức, khi có ý nghĩ tà dâm, kề cận trai gái, và nhất là khi nhập định ở những người tu tập thiền định thành công.

Alpha – Sóng alpha có tần số từ 8 đến 12 Hz. Loại sóng này thông thường xuất hiện ở não bộ phía sau, tụ về một bên não. Những sóng não khi tụ về một bên có biên độ cao hơn phía không tụ. Sóng alpha xuất hiện khi nhắm mắt, hay trong lúc tập thở đều để được thư giãn, hay lúc ngủ sắp thiếp đi. Sóng alpha sẽ tan biến hay giảm hẳn biên độ khi mở mắt trở lại hay khi bắt đầu suy nghĩ hoặc tỉnh ngủ.

Beta – Sóng beta có tần số từ 12 đến 30 Hz. Loại sóng này thông thường tụ về não bộ phía trước và đối xứng cả hai bên não trái và phải. Sóng beta xuất hiện khi phải tập trung suy nghĩ, bận rộn, chăm lo mải mê làm công chuyện, hay trong khi làm những việc quen thuộc không đòi hỏi suy nghĩ nhiều. Sóng beta luôn luôn xuất hiện khi mắt mở và đã tỉnh táo.

Gamma – Sóng gamma có tần số từ 25 đến 100 Hz. Khoa học hiện đại chưa hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của loại sóng não này nên vẫn còn có nhiều tranh luận sôi nổi. Nhiều giả thuyết lý luận rằng sóng gamma phát xuất từ khối não chứa tuyến yên (thalamus), tập trung ở tần số 40 Hz và giúp não bộ có trí nhớ và ý thức được các sự việc xảy ra chung quanh. Loại sóng này còn được tìm thấy ở những bậc tu hành Phật giáo Tây Tạng khi nhập định tĩnh lặng ở trình độ giác ngộ.

Khi thực hành tu tập thiền định lúc khởi đầu, các thiền sinh không thể nào tránh khỏi trạng thái tạp niệm suy nghĩ lung tung. Hiện tượng này luôn luôn xảy ra vì sóng não bộ luôn luôn tập trung ở tầng beta, trung bình từ 20 đến 30 Hz. Trạng thái tĩnh lặng nhập định chỉ đạt được khi tần số sóng não rơi xuống vùng định từ 4 đến 7 Hz và giữ vững ở tần số này.

Hướng dẫn

Dựa vào nguyên tắc của sự đồng nhịp(entrainment) nói trên, nếu người ngồi thiền trong một môi trường nghe thấy hay cảm giác được những âm thanh hay sự dao động liên tục ở tần số từ 4 đến 7 Hz, sóng não bộ sau một thời gian sẽ tự động giảm tần số để hòa hài có chung tần số với những dao động có tần số thấp hơn. Khi tần số sóng não từ tầng beta (trên 20 Hz) rơi xuống vùng định (từ 4 đến 7 Hz), người đang thiền tự nhiên sẽ có chánh niệm (một ý nghĩ duy nhất) và đạt được trạng thái tĩnh lặng nhập định lúc nào không hay và sẽ không tự chủ được.

Trước thập niên 1970, thiết lập môi trường tạo ra điều kiện nghe thấy hay cảm giác được những âm thanh có tần số từ 4 đến 7 Hz là một trở ngại và thử thách rất lớn. Lý do dễ hiểu là thần kinh thính giác của con người dù bén nhậy tới mức nào chăng nữa cũng bị giới hạn và chỉ nghe thấy âm thanh có tần số từ 20 Hz đến 20 kHz.

Lan Ngọc (Nhạc sóng não)

The last of the Mohicans The Best Ever by Alexandro Querevalú

Những người nghệ sĩ thường truyền cho tôi những loại cảm xúc đặc biệt rất đẹp và vô cùng mạnh mẽ.
“Cho dù bên ngoài có như thế nào thì khi lao động họ mới thực sự sống, đứng trước anh có lẽ dường như tôi chỉ đang tồn tại.”