Nguyễn Hiến Lê – Thầy học tôi: cụ Dương Quảng Hàm

Ngày tựu trường niên khóa 1929 – 1930, tôi lên năm thứ ba. Mới vô tới giữa sân trường Bưởi thì anh Phạm Trọng Bào đã tươi cười chạy lại, khoác tay tôi, bảo:
– Năm nay chúng mình ngồi chung với nhau nhé. Chúng mình được học “Francais” [1] cụ Hàm. Anh là học sinh nội trú nên biết những sắp đặt trong trường trước tôi. Rồi anh khoe:
– Tụi Tây nó cũng phải phục Francais của cụ. Văn cụ phảng phất như văn của Taine. Cụ dùng “temps” [2] thì đúng phép Grammaire de l’Acadêmie [3] không bao giờ sai.
Tôi chưa được đọc Taine, mà Pháp văn của cụ, tôi cũng chỉ mới đọc cuốn Abrégé d’histoire d’annam [4] viết cho học sinh Trung học; nhưng phục cụ thì tôi vẫn phục mà có lẽ tất cả các học sinh trường Bưởi không ai không phục.
Mấy năm trước, những khi thấy cụ đi qua sân trường, tôi thường để ý: cụ đi bộ, lúc nào cũng rảo bước, cụ thấp bé mà bước những bước dài, nhón gót (người ta bảo là tướng yểu), như lúc nào cũng vội vàng – cụ có bao giờ biết thơ thẩn, mơ mộng không nhỉ? – mà ngồi xe đạp thì trái lại, cụ đạp rất chậm, tốc độ đều đều, chỉ độ mười cây số một giờ, tới cửa lớp, cụ thận trọng hãm lại, cho xe nghiêng qua một bên, khoan thai bước xuống, gác xe, gỡ cài kẹp ống quần ra, tháo chiếc cặp phồng những sách vở rồi ôm cặp tiến vô lớp. Gặp bạn đồng sự cụ niềm nở bắt tay, nhưng ít khi đứng lại để trò chuyện; cụ tới lớp không khi nào trễ: nhưng cũng không khi nào quá sớm, chỉ dăm ba phút là cùng, như vậy thì đâu có thì giờ để trò chuyện. Tôi có cảm tưởng cụ là một chiếc đồng hồ mà thì giờ của cụ đã tính trước đâu vào đấy hết. Chúng tôi phục cụ ở điểm đó.
Cụ sống rất giản dị. Từ nhà ở giữa phố Hàng Bông lên trường, đường dài khoảng ba cây số, mà quanh năm, hè cũng như đông, mưa cũng như nắng, ngày nào cụ cũng chầm chậm đạp một chiếc xe cũ; suốt hai năm học cụ, tôi nhớ chỉ một hai lần cụ đi xe kéo vì mưa gió lớn quá hoặc vì trong mình khó ở. Có lần chúng “thổi” mất chiếc xe của cụ và bọn chúng tôi được một dịp cười: con người cẩn thận như vậy mà cũng để mất xe ư? Và chiếc xe “tàng” như vậy mà chúng cũng “thổi” ư?
Y phục của cụ hình như chỉ có vài bộ, mốt cổ lỗ, nhưng lúc nào cũng sạch và có nếp. Tóc thì chắc chắn một tháng cụ mới húi một lần và chỉ khi nào húi cụ mới cạo râu, vì vậy râu cụ đã thưa lại lờm chờm, trông y như limailles de fer [5] và chúng tôi dùng danh từ Pháp đó để đặt biệt hiệu cho cụ.
Cụ có tật nhiều đàm. Không biết từ hồi nào, một học sinh tai quái đã bắt chước bài thuyết hậu Anh nghiện rượu trong cuốn Quốc văn cụ thể của cụ Bùi Kỉ:
Sống ở nhân gian đánh chén phè
Thác về âm phủ dắt kè kè
Diêm vương phán hỏi: mang gì đó?
– Be!
rồi sửa đổi ít chữ để giễu tật trên của cụ.
Lối giễu đó không có gì độc ác vì chúng tôi rất quí cụ. Tôi chưa thấy một bạn học nào tỏ một vẻ gì là oán cụ, hoặc ghét cụ. Ngay những bạn biếng học nhất, nghịch ngợm nhất cũng ngưỡng mộ cụ, coi cụ là một nhà mô phạm kiểu mẫu; một số trong đó có anh Phạm Trọng Bào và tôi coi cụ như cha nữa. Cụ nghiêm trang mà hiền hòa, và tôi chắc cụ không thù ai, ghét ai được, đôi khi thấy chúng tôi nghịch quá thì chỉ cau mày, rầy một câu rồi bỏ qua, mà nụ cười rất hồn nhiên của cụ lại nở trên môi, để hở mấy chiếc răng vàng vàng hơi đóng đen trên một khuôn mặt có thể gọi là xấu: trán dô, mũi gãy, chỉ được cặp mắt là sáng, hiền từ và vui nhờ mấy nét nhăn ở đuôi mắt, người Pháp gọi là pattes d’oie [6].
Cụ dạy Pháp văn và Việt văn cho chúng tôi hai năm liền, năm thứ 3 và thứ 4. Mới vào lớp, cụ nở ngay một nụ cười, cho phép chúng tôi ngồi xuống, rồi chậm rãi bước lên bục, chậm rãi lấy chiếc đồng hồ quả quít ra đặt trên bàn, mở chiếc cặp, lấy sổ sách, cây viết ra, đặt thứ nào vào chỗ nấy rồi mới thủng thẳng giảng bài.
Cụ luôn luôn có hai cây viết: một cây viết máy ngòi vặn vô được (kiểu plume rentrante ngày nay không ai dùng nữa) để viết vô sổ của trường, và một cây viết chì tím, ngắn, nhỏ bằng nửa đầu đũa để viết vô sổ riêng của cụ. Và cụ có một sổ tay nhỏ hơn tấm bưu thiếp trong đó cụ chép tên tất cả các học sinh những lớp cụ dạy. Mỗi khi cụ muốn gọi một trò nào đọc bài hoặc trả bài, cụ mở cuốn đó ra coi chứ không coi trong sổ lớn của trường; như vậy để biết học sinh nào đã có điểm rồi và để học sinh trong lớp được hỏi đều hết. Không bao giờ cụ “truy” riêng một trò nào mà hỏi trò đó nhiều hơn những trò khác. Lối đó rất công bằng, nhưng một số học sinh lần này trả bài rồi thì có thể chắc chắn lần sau khỏi phải trả mà không cần học bài. Chắc cụ cũng biết vậy.
Khi cho điểm, cụ dùng viết máy ghi vào sổ của trường rồi dùng viết chì ghi vào sổ của cụ. Tới cuối năm cụ coi lại sổ tay rồi mới phê trong học bạ. Cụ làm việc có qui củ, rất cẩn thận và công bằng. Tôi không bao giờ thấy cụ viết tháu.
Lối dạy học của cụ rất đúng qui tắc sư phạm: theo sát chương trình, không nhấn mạnh vào phần nào mà lướt qua một phần khác, cũng không giảng ra ngoài chương trình. Cụ theo trình độ của học sinh trung bình trong lớp mà giảng rất rành mạch. Như vậy có lợi cho đa số học sinh mà không có lợi mấy cho hạng học sinh giỏi. Bọn này không cần gắng sức, chú ý, mà tôi cũng chưa bao giờ thấy cụ thúc đẩy, khuyến khích một học sinh giỏi.
Học cụ, chúng tôi thấy “khỏe lắm”, nhiều lúc còn hơi chán nữa. Chúng tôi muốn được học nhiều về văn học sử. Phần vì trong bọn chúng tôi, có vài người muốn dự bị thi tú tài Pháp mà cụ không bao giờ giảng ra ngoài cuốn Textes choisis cửa Desgranges; cho nên có lần tôi ước ao được học Pháp văn với cụ Foulon, một giáo sư dạy môn luân lí cho học sinh năm thứ tư, giảng bài nghe rất thích.
Cụ chấm bài luận Pháp văn kĩ, nhưng chú trọng đến những lỗi về ngữ pháp hơn cả, chứ không chỉ cho chúng tôi cách viết sao cho hay, không giảng cho chúng tôi về mĩ từ pháp. Lối phê điểm của cụ cũng rất “trung dung”, ít khi cho đến 14 điểm trên 20, mà cũng ít khi cho dưới 6 trên 20. Tính tình và cách dạy của cụ trái hẳn cụ Foulon. Cụ Foulon bắt học sinh gắng sức nhiều, giảng cao hơn chương trình, rất gắt với học sinh kém, nhưng rất thân với học sinh giỏi, tôi còn nhớ hồi sắp về nghỉ bên Pháp, trước giờ học buổi chiều, cụ lại trường từ biệt các học sinh, thấy tôi chưa tới, nhắc các bạn tôi rằng cụ gởi lời thăm và ân hận vì bận nhiều việc không thể đợi để gặp mặt tôi được. Cụ Dương thì không tỏ vẻ yêu ghét ra mặt, đối với học sinh nào cũng như nhau. Cụ dạy Việt văn cũng vậy, cứ mở cuốn Quốc văn trích diễm do cụ soạn, chỉ một bài nào đó, bảo đọc rồi hỏi hết những câu hỏi in ở cuối bài, thế thôi. Cho nên về tiểu sử, bút pháp mỗi tác giả, nhất là về văn trào mới thờiđại, chúng tôi chẳng biết thêm được gì. Điều đó làm cho chúng tôi hơi thất vọng: cụ nhất định là biết nhiều về văn học sử của mình mà sao cụ không truyền những hiểu biết đó cho chúng tôi. Cụ theo quá sát chương trình. Suốt hai năm học chỉ có mỗi một lần tôi thích giờ Việt văn của cụ. Lần đó cụ cho đọc bài Cuộc Nam tiếncủa dân tộc ta của Phạm Quỳnh. Tôi còn nhớ rõ là một buổi chiều có nắng, có lẽ vào mùa hè. Cụ cho treo bản đồ Đông Dương lên chiếc bảng đen, rồi trong khoảng 40 phút, cụ cầm cây thước, chỉ cho chúng tôi các giai đoạn trong cuộc Nam tiến: đời Lí, đời Trần tiến tới đâu, đời Lê, đời Nguyễn tới đâu (sau đó tôi mới thực hiểu nghĩa chữ tâm thực); bằng những phương tiện, thủ đoạn nào: Khi thì dùng quân lực, khi thì dùng ngoại giao, khi thì dùng cả hai, công việc di dân, lập ấp, khai hoang tổ chức, tiến hành ra sao; sự bảo vệ những đất đó gặp khó khăn ra sao, nhờ những di dân Trung Hoa như họ Mạc ở Hà Tiên ra sao.
Hôm đó giọng cụ hùng hồn, bài giảng rất sáng sủa mà hấp dẫn, gợi cho chúng tôi lòng tự hào về tổ tiên. Từ trước tôi vẫn biết cụ là em ruột cụ cử Dương Bá Trạc, một nhà cách mạng trong ĐôngKinh Nghĩa thục, đồng chí với mấy ông bác của tôi, nhưng trong khi dạy học, cụ không bao giờ nói về chính trị, cho nên mãi hôm đó tôi mới thấy rõ cụ nồng nàn yêu nước.
Luận Quốc văn ít khi cụ đem về nhà chấm, thường gọi một trò lên nộp bài, cụ đọc lớn tiếng cho cả lớp nghe rồi thấy lỗi nào cũng giảng luôn cho cả lớp.
Mỗi giờ cụ chấm như vậy được độ năm bài, phê điểm cũng từ 7 – 8 lên tới 13 – 14 trên 20 là cùng. Gần hết giờ cụ mới ra đề mới để về nhà làm. Hình như không bao giờ cụ giảng cho cách làm. Cụ cũng ít khi khuyến khích học sinh đọc thêm sách. Chỉ có một lần, gần tới kì thi bằng Cao đẳng tiểu học, cụ bảo chúng tôi ra thư viện kiếm những cuốn Pour les petits et les grands, A travers les êtes et les choses của Charles Wagner mà đọc. Tôi nghe lời cụ và thấy lối cảo luận của tác giả đó hợp với tuổi chúng tôi, sáng sủa, bình dị, vui tươi, tư tưởng không thực sâu sắc nhưng xác đáng, đôi khi mới mẻ, cao nhã.
Tóm lại học sinh của cụ dễ đậu, nhưng người nào không chịu tự học thêm thì khó xuất sắc được.
*
Thấy cụ dễ dãi – trong hai năm cụ chỉ nổi giận một lần, cũng chỉ phạt nhẹ thôi – anh em chúng tôi thỉnh thoảng muốn trêu cụ.
Giờ Pháp văn hôm đó anh Thiền – sau này hi sinh cho Tổ quốc trong tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng – đọc một đoạn kịch củaMolière, tới chữ “Ouaisi” anh đọc là “ủa!“. Cả lớp cười ồ lên, mà mặt anh cứ thản nhiên, làm bộ bơ bơ, coi càng thêm tức cười. Cụ cũng cười, cười rất hồn nhiên, cơ hồ như đồng tình với chúng tôi. Đợi hết trận cười rồi, anh Thiền lại tiếp tục đọc nốt. Tôi không bao giờ có ý đùa cụ, nhưng đã có lần dò ý cụ. Tôi vẫn ghét cái giọng ái quốc của Hoàng Cao Khải trong bài Trưng Vươngtuyển trong Quốc văn trích diễm. Khải không đáng được ghi tên trong Văn học sử Việt Nam. Kẻ bán nước thì đừng nên nhắc tới sự nghiệp các vị anh hùng của dân tộc. Tôi kiếm cách nói tới Khải trong một bài luận Quốc văn và gọi Khải là “hắn” để xem phản ứng của cụ ra sao. Mà đúng lần đó, cụ bảo tôi đem bài lên chấm. Tới chỗ tôi gọi Khải là “hắn”, cụ cứ thản nhiên đọc không phê bình gì cả, rồi cũng cho điểm đạt khá như các bài trước của tôi. Do đó tôi đoán rằng cụ không ưa gì bọn Hoàng Cao Khải, và trongQuốc văn trích diễm, bất đắc dĩ phải trích bài của Khải đấy thôi.
Cảm động nhất và làm cho chúng tôi phục cụ nhất là chuyện dưới đây.
Hồi ấy, không hiểu vì lẽ gì, nha Học chánh Đông Đương lại thay đổi chương trình, bắt học sinh các trường Bảo hộ học các tác giả Pháp viết về thuộc địa mà họ gọi là “auteurs colniaux” [7] và chúng tôi gọi là tác giả “cô lô nhân”. Giáo sư Pujarniscle dạy Pháp văn ban “tú tài bản xứ” (baccalauréat local – người ta chế nhau gọi là tú tài lọ cổ) ở trường Bưởi soạn một cuốn văn tuyển của các tác giả viết về Đông Dương như Jean d ‘Esme, Roland Dorgelès, Jules Boissière… cho chúng tôi học. Nhưng chúng tôi rất ghét bọn “cô lô nhân” đó, cho họ có óc thực dân, chỉ tiếp xúc với bọn hạ lưu Việt Nam (trong giới các quan lớn cũng không thiếu gì bọn hạ lưu), không hiểu gì về phong tục Việt Nam, mà lại có óc khinh thị người Việt, chép toàn nhưng việc bậy bạ, tưởng vậy là ghi đúng tính tình, tâm lí dân tộc Việt. Chúng tôi ghét nhất cái thói xen những tiếng Việt “pháp hóa” vô cho truyện thêm màu sắc địa phương và tỏ rằng mình biết rõ về Việt Nam. Người dân quê Việt Nam họ không gọi là paysan mà gọi là “nha que”, chị Sen không gọi là bonne mà gọi là “la congai”, rồi còn nhiều danh từ khác nữa như “le cai nha”, “le cai ao”…, chúng tôi thấy chướng mắt, chỉ muốn xé toạc đi. Ghét họ thì ghét luôn lối hành văn của họ mà chúng tôi cho là cầu kì, màu mè, thậm chí ghét luôn cả ông “nghè” Nguyễn Mạnh Tường vì ông đã trình một luận án văn chương về Jules Boissière, cây bút  thực dân hạng nặng mà chúng tôi đọc trạnh đi, thành một biệt hiệu B… C… rất tục, không thể chép lại đây được. Lần đó cụ Dương cho chúng tôi học bài Le grand lac của J. Boissière, bài đó chỉ dài độ 15 – 20 hàng tả cảnh Hồ Tây ở Hà Nội, văn trúc trắc chúng tôi không thấy hay ở đâu cả. Có lẽ vì ghét cho nên không muốn học, thấy lâu thuộc. Tới hôm trả bài, bọn chúng tôi 5 – 6 anh em đứng ở cửa hông trường tức cửa nhìn sang vườn Bách Thảo, hỏi nhau. Mày có thuộc bài récitation [8] không? Tao ghét thằng B… C… đó quá, không học được. Ai cũng nhận rằng bài đó khó học và không thuộc kĩ. Rồi chúng tôi hùa nhau mổ xẻ Boissière, vạch tất cả những “tội” của hắn ra. Sau cùng một anh bạn tôi, nhớ đâu như anh Hiệp thì phải, hồi đó chúng tôi gọi là “Hiệp tẩy” vì có thái độ hung hăng, như bọn lính tẩy – hô hào anh em phản kháng cụ Dương: cụ gọi trả bài thì dù thuộc cũng thưa là không thuộc, cụ hỏi tại sao thì đáp lại ghét tác giả thuộc địa đó.
Đối với một giáo sư khác thì có lẽ chúng tôi không dám làm “reo” như vậy đâu; vì biết cụ hiền, có gì cũng chỉ cho zêro, cùng lắm là nửa “consigne” [9]  nên chúng tôi tán đồng ngay đề nghị của anh bạn. Vô sân trường, chúng tôi thuyết phục các bạn nội trú và họ cũng bằng lòng.
Mặc dầu đã quyết tâm rồi, tới lúc cụ sắp gọi trả bài, chúng tôi cũng hồi hộp.
Theo lệ, cụ mở cuốn sổ tay ra chấm tên một học sinh vào hạng trung bình. Anh này chắc cũng chỉ thuộc lõm bõm, trả được một vài câu rồi ngừng, thú rằng không thuộc. Cụ gọi thêm một anh khác, cũng không thuộc nữa. Cụ ngạc nhiên, hỏi tại sao. Một anh bạo dạn đứng lên thưa rằng chúng tôi không ai thuộc cả vì không ưa Jules Boíssière, một tên thực dân không có cảm tình với dân tộc mình. Rồi chúng tôi trình với cụ tất cả những điều chúng tôi trách hắn. Cả lớp chờ sự phản ứng của cụ.
Cụ làm thinh một vài phút rồi bỗng nhiên tôi thấy hai giọt nước mắt lăn trên má cụ. Cụ vẫn ngồi yên nhìn xuống phía cuối lớp, cũng không lấy chiếc khăn tay nhỏ xíu bằng vải trắng để lau nước mắt nữa, mặc cho nó rơi xuống mặt bàn và tự khô trên má. Chúng tôi im phăng phắc, kẻ cúi đầu xuống, kẻ nhìn vào mặt cụ. Tôi muốn đứng lên xin lỗi cụ.
Nhưng tôi không thốt lên được một lời – cả lớp cũng không ai thốt lên được một lời – mà cứ ngồi trân trân. Có lẽ khi cảm xúc mạnh quá thì sự yên lặng là thái độ tự nhiên nhất. Giá lúc đó tôi đứng lên nói thì thế nào tôi cũng nghẹn ngào mà nước mắt cũng ròng ròng trên má.
Cụ và chúng tôi ngồi im như vậy không biết mấy phút, chỉ nhớ là lâu lắm, rồi cụ bảo chúng tôi mở bài Le grand lac ra, cụ giảng lại cho, để về nhà học lại. Hôm đó cụ không cho điểm ai cả.
Tan buổi học, chúng tôi không ai bảo ai, đồng tình không nhắc lại việc đó nữa. Chúng tôi đều ân hận về hành động của mình, và tuần sau khi trả bài thì ai cũng thuộc. Mà lần này cụ cũng chỉ gọi vài người trả thôi, không có một lời nào gợi lại chuyện cũ.
Nếu phải là một giáo sư khác thì chúng tôi cũng được 5 – 6 con zêro hoặc ít nhất cũng bị rầy một hồi. Có thể một vài vị còn gắtgao “truy” chúng tôi nữa, bắt cả lớp tuần tự lên trả bài, lần trước cũng như lần sau. Cụ thực quảng đại, đau lòng trước sự phản kháng của chúng tôi mà không hề giận, tha thứ cho cả. Những giọt nước mắt của cụ hôm đó chứa biết bao tâm sự.
Trong đời học sinh dài 15 năm của tôi, tôi đã gặp được vài ba thầy học có tư cách mà tôi kính trọng, nhưng cụ Dương vẫn là người tôi kính mến nhất. Tôi cho rằng chúng tôi có phúc mới được sống một giờ học vô cùng cảm động như hôm đó, mới được thấy cụ khóc trước mặt chúng tôi như vậy, mới được nhận một bài học lặng lẽ ơaf cao thượng như vậy. Cha mẹ mà lặng lẽ đau khổ vì hành động của con, thì đó là chuyện thường; nhưng thầy học đau khổ vì hành động của trò thì từ xưa đến nay đã có một trường hợp nào như vậy không?
Đầu thu năm đó, anh Phạm Trọng Bào và tôi, một buổi tối rủ nhau lại phố Hàng Bông thăm cụ và cám ơn cụ đã dạy bảo chúng tôi. Nhà cụ có gác, căn dưới là cửa hàng bán bông. Chúng tôi xưng tên, đứng đợi một lúc rồi có người bảo chúng tôi lên gác. Thang dốc và bằng gỗÁnh đèn lù mù, tôi không nhớ là đèn điện hay đèn dầu. Vừa lên hết cầu thang thì cụ ở phòng trong bước ra.
Chúng tôi chào cụ, tỏ lòng cảm ơn cụ. Cụ không bảo chúng tôi ngồi mặc dầu trong phòng có bàn ghế, cụ đứng cách chúng tôi khoảng một thước, mà tiếp chuyện, mừng chúng tôi thi đậu và hỏi chúng tôi sẽ tiếp tục học nữa không. Vẫn nụ cười hồn nhiên, niềm nở đó. Anh Bào bảo sẽ lên ban Tú tài Bản xứ và sẽ được cụ dạy dỗ cho nữa. Tôi thưa vì nhà nghèo, phải vô trường Cao đẳng Công chánh để có học bổng. (Thời đó vào năm 1931, kinh tế khủng hoảng nặng). Nhưng chúng tôi thấy hình như cụ mắc việc nên chỉ đứng vài phút tôi chào cụ ra về.
Từ đó tôi không có dịp gặp lại cụ nữa. Nay muốn gặp lại thì cụ đã thành người thiên cổ. Khoảng mười lăm năm trước, khi hay cụ đã soạn bộ Việt Namvăn học sử yếu, tôi nhờ một anh bạn mua từ Hà Nội gởi vào. Bộ đó tôi thuê đóng bìa dày, và tôi coi là một bộ quí nhất trong tủ sách của tôi.
Tháng 10 năm 1996
(Bách Khoa số 1 – 11 – 1966)
Chú thích: 
[1] Francaise: Pháp văn.
[2] Temps: thì (trong ngữ pháp)
[3] Grammaine de académie: ngữ pháp hàn lâm.
[4] Abrégé d’histoire d’Anlam: Giản yếu lịch sứ An Nam
[5] Limai/1es de fe:r mạt sắt, mài dũa (BT)
[6] Pattes d’oic: vết nhăn đuôi mắt (BT).
[7] Auteur Coloniaux: tác giá thuộc địa (BT).
[8] Récitation: bài học thuộc lòng(BT)
[9] Consigne: cấm túc, phạt giữ lại trường (ngày nghỉ) (BT)
Nguồn:
Nguyễn Hiến Lê. “Thầy học tôi: cụ Dương Quảng Hàm.” Để tôi đọc lại. NXB Văn học, 2001.

2014

Anh thiếu tiền, anh biết ngay. Anh thiếu sức khỏe, anh cũng biết ngay. Nhưng khi anh thiếu kiến thức, thường anh ko tự biết.

Thao trường đổ mồ hôi
Chiến trường bớt đổ máu

Văn không võ, văn thành nhu nhược
Võ không văn, võ hóa bạo tàn

Nói với những người không cần nói là phí lời
Những người cần nói mà không nói là mất người

học giả Ngô Tất Tố đã thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần-Thái-Tông như sau:
“Cũng bởi có thân mà có bệnh
Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu”.

 “ Cái tình là cái chi chi,
  Dẫu chi chi cũng chi chi với tình ”
Nguyễn Công Trứ

Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Trần Trọng Kim dịch)

Trần Cảnh tức Trần Thái Tông (1218-1277) con thứ của Trần Thừa, là ông vua đầu tiên của nhà Trần có công trong việc ổn định và dần đưa Việt Nam lúc bấy giờ vào giai đoạn thịnh vượng của thời kỳ Đông A. Trực tiếp lãnh đạo chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất. Đặt nền móng cho chế độ thi cử ở Việt Nam..

Và 3 bài thơ răn :

Văn răn ham sắc

Da phấn, tóc thơm với má đào
Mà nhìn ai cũng thấy nao nao
Thực chất chỉ toàn xương với thịt
Giết người đau đớn chẳng cần dao

Văn răn nói càn
Khoa môi, múa mép giả ân cần
Cúi đầu xu nịnh để xin ăn
Mang tiếng tiểu nhân đời giễu cợt
Cuối cùng cũng chuốc vạ vào thân

Văn răn kẻ uống rượu
Chẳng qua bã gạo ủ nên men
Mà biến người ngay thành kẻ hèn
Nhà tan mất nước đều do rượu
Phá cả tôn nghiêm chốn cửa thiền

“dứa đằng đít, mít đằng cuống”

Tổng thống S. Peres, người đã sang Việt Nam, nói thế này: diễn văn rất hay, nhưng anh định làm gì tiếp theo?. Tỉ phú hàng đầu Israel , ông Stef Wertheimer, lời khuyên đầu tiên với người Việt cũng là, nói ít thôi làm nhiều lên.

Khi ta muốn, ta sẽ tìm cách. Khi ta không muốn, ta tìm lý do!

If you can not stand then you move cause you’re not a tree!

Một vài “tự bạch” về nhân sinh quan của Nguyễn Hiến Lê

Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT – “Lời mở đầu” của tác phẩm “Đời viết văn của tôi”.

Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau:[7]

  1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người. 
  2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng. 
  3. Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,… 
  4. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng. 
  5. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người. 
  6. Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm. 
  7. Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền. 
  8. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi. 
  9. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác. 
  10. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị , nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân. 
  11. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người. 
  12. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được. 
  13. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không. 
  14. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân. 
  15. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội. 
  16. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như pngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó. 
  17. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được. 
  18. Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có qui củ, kỉ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong. 
  19. Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần. 
  20. Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau. 
  21. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.

    Chú ý đến sự phù hợp chứ đừng chú ý đến chuyện đúng sai

    Anh tin vào tình người, anh tin vào cảm giác, cảm xúc, tình cảm của anh với người khác hay anh tin vào cái lý sự, cái tranh luận đúng sai của anh với người khác?

    Chúng ta hay nói đúng sai lắm. Hiền giả Duy Giác hỏi tôi không biết bao nhiêu lần về vấn đề đúng sai: “Mình căn cứ vào đâu để mình biết là đúng để hành động?” Tôi không muốn trả lời câu này. Bởi vì nếu tôi trả lời câu này thì không có giá trị gì hết. Nếu tôi trả lời trực tiếp thì sẽ giết chết cuộc đời quý vị.

    Quý vị tìm câu hỏi để xác định kiến thức của mình thì không có giá trị làm bùng nổ năng lực nhiệm mầu trong đầu óc quý vị được. Anh phải thực tập, anh phải thực hành rồi tự anh khám phá. Mà anh phải cảnh giác kinh khủng lắm với tất cả những khái niệm mà anh đang dùng của thế giới này. Ví dụ khái niệm đúng sai.

    Anh tới tuổi cưới vợ, anh hỏi “Tôi cưới vợ như thế này là đúng hay sai? Tôi lấy cô này là đúng hay sai?” Cái chữ đúng sai phải xét lại. Tôi cưới vợ trong thời điểm này là phù hợp chưa? Phù hợp với sức khỏe của tôi, phù hợp với gia đình, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của tôi chưa? Tôi cưới vợ như thế này có phù hợp với văn hóa của tôi hay chưa? Tôi lấy cô này có phù hợp với tôi không? Tôi có phù hợp với cô ta không? v.v… Không thể nói đúng sai được.

    Tôi giúp đỡ cô này có phù hợp không? Cô này có chồng và đang đau khổ vì chồng, tôi nhào vô, tôi gánh lấy việc này, việc kia cho chồng cô thì có phù hợp không? Không nói đúng sai được. Tôi làm việc như thế này để tôi giúp đỡ cô ta chấm dứt khổ đau. Tôi hành động như thế này có phù hợp chưa? Không thể nói đúng sai được. Có phù hợp với những điều kiện, những hoàn cảnh, có phù hợp với đầu óc vô tư không? Ví dụ cô kia chưa nhận thức đúng hay cậu kia chưa nhận thức đúng thì xem hành động của mình có phù hợp với nhận thức sai lầm của người ta chưa? Nếu người ta cứ nhận thức sai lầm mà anh cứ nhào vô thì anh chết ngay, cũng không phù hợp với nhận thức của người ta. Anh không thể xem thường sự cố chấp hay sự ngu dại của người khác được. Thành ra phải dùng chữ phù hợp.
    Tôi quan sát thấy rất nhiều cặp vợ chồng, nhiều con người luôn luôn chú trọng tranh luận với người khác: chồng tranh luận với vợ, vợ tranh luận với chồng… Người ta hay chú ý đến đời sống tranh luận hơn là chú ý đến sự chia sẻ những cảm giác, những cảm xúc yêu thương với nhau.

    Duy Tuệ

    Cách thở khác nhau như thế nào?

    Mức gắn bó giữa hơi thở và sự sống con người là điều không cần bàn cãi. Hơi thở tắt thì sự sống cũng tắt theo. Tuy thế, có lẽ rất ít người lưu tâm tới hơi thở cũng như cách thở. Trong vòng nửa thế kỷ nay, do sự hiểu biết nhiều hơn về nếp sống Đông Phương của người Tây Phương nên đã có những công trình nghiên cứu về cách thở để trị bệnh trong y học. Nhưng đối với đám đông thì những chỉ dẫn về cách thở để chữa bệnh này nhiều khi vẫn là một mớ những rối mù khó định.

    Riêng đối với những người học võ, nhất là những người đã đạt tới một trình độ thành tựu cao thì ý thức về tầm mức quan trọng của hơi thở rất rõ rệt. Hơi thở không chỉ giúp con người điều trị được một số bệnh hoạn mà còn có thể giúp con người tăng thêm sức lực của mình. Tất nhiên, trong cả võ thuật cũng như trong y thuật điều chủ yếu vẫn là phải biết cách thở.

    Bằng một diễn tả giản lược nhất, người ta cho rằng có 5 kỹ thuật thở khác nhau. Những kỷ thuật thở này hoặc do tự nhiên theo các điều kiện thể chất hoặc do sự rèn tập đã đạt tới những trình độ không giống nhau. 5 kỹ thuật thở đó là

    1. Thở từ cổ lên
    2. Thở từ ngực trở lên
    3. Thở từ bụng trở lên
    4. Thở từ xương sống
    5. Thở qua các lỗ chân lông

    Người thở từ cổ lên là những người mà sức lực đã vào thời tàn lụi. Đây là cách thở của những người đã kề cận với cái chết.

    Người thở từ ngực trở lên là người có tình trạng sức khỏe bình thường.

    Người thở từ bụng trở lên là những người luyện tập võ thuật đã đạt tới trình độ trung cấp.

    Người thở từ xương sống là những người rèn luyện võ thuật hoặc Thiền quán đạt tới mức độ cao cấp.

    Thở bằng lỗ chân lông là kỹ thuật thở của các đạo sĩ Yoga.

    Trích Tìm Hiểu Võ Thuật số 3 “Võ tự vệ Arnis”

    Tiến sĩ toán: ‘Giá đừng học toán thì tốt hơn’

    Vốn là một người học toán – lý, cuộc đời tiến sĩ Phan Quốc Việt rẽ sang hướng khác khi ông đam mê dạy học và kinh doanh.

    Ông là người sáng lập tập đoàn Tâm Việt, doanh nghiệp chuyên đào tạo về kỹ năng mềm. Lớp học của tiến sĩ Phan Quốc Việt, chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Tâm Việt, tại trung tâm luôn thu hút đông đảo người đến nghe. Ông nói về cái tâm trong sáng của con người, tạo niềm tin và động lực để họ hướng về tương lai tươi sáng.

    Phan Quốc Việt cho biết, thành công trong tư duy ngôn ngữ của ông hiện nay không phải do toán học. Ông phủ nhận suy nghĩ cho rằng người học toán sẽ có tư duy tốt.

    “Môn học nào cũng cần tư duy”, tiến sĩ Việt nói.

    Theo ông, ý chí là thứ duy nhất mà ông thu được từ toán, nhưng toán không phải môn duy nhất giúp con người rèn luyện ý chí.

    “Leo núi cũng có lý trí, tập nhạc hay đánh cầu lông cũng vậy. Con người muốn có ý chí đều phải rèn luyện”, ông nói.

    Tư duy có nhiều loại và thông minh cũng vậy, ông Việt nhận định. Để minh chứng điều này, ông phân tích, nhà phát minh lừng danh Thomas Edison chỉ học lớp 3 song đã tạo ra những sản phẩm để đời. Có người có trí thông minh thiên nhiên như Charles Darwin, lại có người thông minh logic như Albert Eistein hay Ngô Bảo Châu, thông minh nhạc điệu như Đặng Thái Sơn, Mozart.

    Những năm 80, đang theo học ngành kỹ sư địa chất, tiến sĩ Việt lao vào ngành học “thời thượng” thời đó – môn Toán – và “khinh thường” các môn học khác. Giờ nhìn lại, ông thấy tiếc quãng thời gian đó vì những kiến thức cần thiết thì ông không biết, còn cái ít được áp dụng cho cuộc sống hiện tại thì ông biết quá sâu sắc.

    Là tiến sĩ đại học Matxcơva, Lomonosov (1984-1988), nhưng ông Việt nói rằng, ông chưa bao giờ sử dụng đến cách tính tích phân, vi phân, delta, hay khai căn trong cuộc sống thực tế.

    “Tồi tệ nhất là xuất sắc cái mà không bao giờ dùng. Tôi bỏ ra 10 năm học toán để giờ đây không dùng đến toán. Nếu muốn nhân tôi sẽ dùng máy tính, muốn tính độ cao đỉnh Everest tôi tìm kiếm qua Google”, ông nói.

    Thời ông Việt đi học, ai cũng theo toán, học toán, ca ngợi toán. Ông cũng theo xu hướng của thời đại, miệt mài học toán để thi vào trường Lomonosov làm tiến sĩ Toán – Lý. Ông cho rằng, chọn ngành nghề sai khiến con đường đi sự nghiệp của ông như dài hơn.

    Tại sao phải làm cái cũ để mong kết quả mới ? Tại sao lại xuất sắc cái không cần cho cuộc sống ? Tại sao xuất sắc cái không bao giờ dùng ? Đó là những câu hỏi khiến tiến sĩ Việt trăn trở.

    Ông tiếc vì trước đây bỏ ra quá nhiều thời gian cho môn toán. “Nếu từ đầu, tôi học về kỹ năng sống sẽ tốt hơn nhiều. Tôi hỏi tất cả mọi người, bạn bè từng học toán với tôi trước đây rằng, có bao giờ bạn tính logarit, bao giờ tính tích phân, khai căn không, delta, phương trình bậc ba không. Tôi chắc là không, hoặc có cũng rất ít”.

    “Người ta thường ngụy biện logic và toán học là một. Thực tế, logic là môn lập luận. Để lập luận và tranh luận phải học môn đó chứ không phải khai căn, tích phân. Điều nguy hiểm hơn là người ta không ý thức được rằng đó là những thứ hầu như không dùng”, ông nói.

    Gần 50 tuổi ông Việt mới chuyển sang dạy kỹ năng giao tiếp, lắng nghe, ứng xử. Ông cho rằng đây mới là những thứ mà mọi người cần trong suốt cuộc đời.

    “Càng ngày tôi càng thấm thía những câu như ‘lời chào cao hơn mẫm cô’, ‘mồm miệng đỡ chân tay’. Giá như tôi không học toán mà học tâm lý, nhân văn, xã hội thì tôi có thể giúp bản thân và đời nhiều lắm. Nếu mọi người thuộc những kỹ năng giao tiếp cơ bản như bản cửu chương thì đất nước sẽ tuyệt vời hơn”, ông tâm sự.

    Chủ tịch tập đoàn Tâm Việt không phủ nhận lợi ích từ toán lý thuyết, song ông cho rằng, xã hội hãy để những người người có đầu óc xuất sắc tìm tòi những vấn đề khoa học ứng dụng, để đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân và xã hội.

    Hương Thu http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2012/01/tien-si-toan-gia-dung-hoc-toan-thi-tot-hon/