SCHUMANN FREQUENCY

SCHUMANN FREQUENCY

Cây cối cũng chính là những antena thu sóng vô tuyến. Chúng rất nhạy cảm với sóng vô tuyến tự nhiên, như tần số Schumann, nhưng cũng có thể là sóng nhân tạo. Nếu sóng nhân tạo quá nhiều hoặc quá độc hại, chúng làm cây bão hòa (NGÁO), làm suy yếu hoặc thậm chí khiến cây căng thẳng đến chết.Một thiết bị tạo ra sóng điện từ Schumann còn cải thiện phúc lợi của động vật trong các trang trại chăn nuôi.

Sóng Schumann là sóng điện từ trường của mặt đất trong tự nhiên. Nó có tầm quan trọng hàng đầu đối với đồng hồ sinh học của hầu hết mọi sinh vật. Những sóng này được tạo ra bởi nhiều tác động của sấm sét ở khắp mọi nơi trên trái đất vào bất kỳ lúc nào, không gian giữa tầng điện ly và bề mặt trái đất hoạt động như một buồng cộng hưởng tạo ra những sóng đặc trưng cho trái đất.Đây là những sóng vô tuyến tần số cực thấp. Nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều trạng thái hạnh phúc và sức mạnh siêu nhiên của con người là từ sự hòa hợp cộng hưởng của sóng não với tần số Schumann, sóng tự nhiên của trái đất.Nhiều bệnh nhân “cảm điện” cũng cải thiện tình trạng bệnh rất nhiều nhờ các thiết bị này. Ô nhiễm điện từ xung quanh ảnh hưởng đến khả năng hòa hợp cộng hưởng tự nhiên của chúng ta với các tần số này của trái đất, máy phát điện Schumann giúp các sinh vật sống tái điều chỉnh sự cộng hưởng trở lại, điều này rất thích hợp vì ô nhiễm điện từ gần như có mặt khắp nơi.

Máy tạo sóng Schumannvới tần số tối ưu là 7,83 Hz có dạng sóng hình Sin Bản thân sóng Schumann không trực tiếp tác động đến chất lượng các sản phẩm âm thanh hay video mà nó tác động đến môi trường không khí xung quanh, giúp thư giãn thể chất và tinh thần làm cho nâng cao nhận thức của chúng ta về âm thanh và hình ảnh thu được qua đó nâng cao sức khỏe, giảm stress và tăng thêm hiệu quả cuộc sống.

Hình 1: board mạch tạo sóng Schumann mình dùng 3 ngày nay để trong phòng ngủ thấy ngủ đã hơn, đang đặt thêm mấy bộ nguồn để chạy thêm 1 board nữa để tăng thêm giá trị cộng hưởng. Sắp tới mình sẽ lên kế hoạch lắp đặt vài bộ Kit trong farmCác hình còn lại nguồn từ các nhóm nghiên cứu Tartaria, ở trung tâm của các cái gọi là Nhà Thờ (xưa là trung tâm năng lượng) có một hình học thiêng liêng theo mình chất liệu của nó là bằng kim loại dùng để cộng hưởng với tần số Schumann.

Tất cả các hình học thiêng liêng (sacred geometry) trong nhà thờ là những cymatic được phổ lên cho ta thấy nhưng tác dụng chính của nó là tham gia vào sự cộng hưởng của tần số đang có mặt tại khu vực đó. Vd dễ hiểu: đánh đàn nốt La thì thùng đàn cộng hưởng và khuếch đại âm thanh lên lúc này lấy máy vẽ Cymatics phổ ra được hình ảnh của nốt La, sau đó thay thùng đàn bằng lon sữa bò thì sự cộng hưởng mất đi hoàn toàn do kiến trúc lon sữa bò không phải như thùng đàn được thiết kế để cộng hưởng nốt La, lúc này Cymatic của nốt La yếu hơn rất nhiều so với cái ban đầu. Như vậy trong nhà thờ có nhiều Cymatics thì tại chỗ đó chơi một tần số nào phù hợp nó sẽ cộng hưởng lên. Giá trị sự cộng hưởng nó làm khuyếch đại cường độ và nâng tần số lên quãng cao hơn.

Đức Trần

Bài dưỡng sinh ‘lục tự khí công’

Theo sách Nội Kinh, các bậc chân nhân thời thượng cổ sở dĩ sống lâu là do “thuận theo trời đất, nắm lấy âm dương, hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần”. Đó cũng là nguyên tắc của khí công. Lục tự được coi là bài khí công duy nhất phối hợp kỹ thuật hô hấp và sự rung động của âm thanh.
Kỹ thuật dùng âm thanh hoặc âm nhạc để chữa bệnh hoặc để dẫn dắt con người nhập vào những trạng thái tâm lý hoặc tâm linh nhất định đã được biết đến từ xưa, ở nhiều dân tộc cũng như nhiều nền văn hóa khác nhau, trong tôn giáo cũng như trong y học. Theo quan niệm thiên nhân tương ứng của khí công cổ đại, mỗi âm thanh hoặc ý niệm đều tương ứng với một loại khí nhất định trong cơ thể cũng như ngoài vũ trụ. Do đó, ta có thể vận dụng âm hưởng với cường độ và trường độ thích hợp để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý hoặc nâng cao nội khí trong cơ thể.

Lục tự khí công (còn gọi là Lục tự quyết) là một phương pháp khí công đặc thù, đã ứng dụng nguyên tắc trên vào việc chữa bệnh dưỡng sinh. Bí quyết của phương pháp là hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng. Khi thở ra kết hợp với niệm tự quyết. Lời quyết không phát ra thành tiếng nhưng tâm vẫn ghi nhận được. Đây là một loại tĩnh công. Công pháp không cần bất cứ một động tác hoặc chiêu thức gì. Cách thở cũng đơn giản: thở 2 thì, không nín hơi. Tuy nhiên, sự kết hợp đặc biệt giữa hô hấp và tự quyết có thể tạo ra những xung lực có hiệu ứng khai mở và thanh tẩy rất kỳ diệu.

Tương truyền, Lục tự khí công do Xích Tùng Tử, một đạo trưởng tu luyện pháp trường sinh ở núi Hoa Sơn nghiên cứu, ứng dụng và truyền bá cho đời sau. Lục tự quyết gồm 6 chữ: Suy, Hô, Hư, Ha, Hí, Hu. Mỗi chữ ứng với một loại khí hoặc tạng, phủ nhất định trong cơ thể con người. Chữ Suy với thận, bàng quang thuộc Thủy khí.
Chữ Hô ứng với tỳ ị thuộc Thổ khí. Chữ Hư ứng với can đởm thuộc Mộc khí. Chữ Ha ứng với tâm tiểu trường thuộc Hỏa khí.
Chữ Hí ứng với phế, đại trường thuộc Kim khí. Chữ Hu ứng với tâm bào, tâm tiêu thuộc Hỏa khí.

Trước hết, cần tắm rửa sạch sẽ, quần áo nới lỏng, chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát, không có ruồi muỗi. Ngồi xếp bằng thông thường, ngồi bán già, hoặc ngồi trên ghế, hai chân chạm đất. Hai lòng bàn tay đặt trên hai đùi. Eo hơi thót lại. Vai buông lỏng. Cằm hơi thu vào. Lưng thẳng. Hai mắt khép hờ.

Hít vào bằng mũi. Hít vào xuống bụng dưới. Chỉ cần biết trong ý niệm rằng ta đang hít vào một luồng thiên khí từ đỉnh đầu đi thẳng xuống bụng dưới. Không cần quan tâm khí đi như thế nào, cũng không cần cố hít vào quá sâu.

Thở ra bằng miệng. Trong khi thở ra, liên tục phát ra một tự quyết. Ở mỗi hơi thở, tự quyết chỉ phát ra một lần và ngân vang cho đến cuối hơi. Thở ra chậm, nhẹ và đều đồng thời từ từ ép sát bụng vào. Thì thở ra dài hơn thì hít vào. Trong lúc thở ra, môi và lưỡi ở vị trí thích hợp để phát ra âm quyết đã chọn; nhưng chỉ phát bằng ý niệm mà không phát ra thành tiếng sao cho chỉ có sự rung động trong cổ họng và nghe được rõ ràng trong tâm mà vẫn không phát âm ra ngoài. Như vậy, sẽ chỉ có hơi thở thoát ra miệng. Âm quyết chỉ hiện diện trong tư tưởng của người tập, người ngoài không nghe thấy.

Đến cuối hơi thở, miệng lại ngậm lại, đầu lưỡi chạm nướu răng trên và tiếp tục hít xuống bụng dưới để bắt đầu chu kỳ thở tiếp theo. Hơi thở này kế tiếp hơi thở kia, khoan thai, không thô, không gấp.

Đối với người bình thường, có thể tập mỗi âm khoảng 24 hơi thở theo một thứ tự nhất định từ âm này đến âm kia. Mỗi ngày có thể tập 1 hoặc 2 lần lúc bụng trống. Trường hợp chữa bệnh có thể tập trung làm nhiều lần hơn khi đến những âm có liên quan đến những rối loạn bệnh lý trong cơ thể.

Tập trung sức chú ý vào âm quyết trong thời gian thở ra là khâu quan trọng nhất trong Lục tự quyết. Do đó, không nên nhẩm đếm hơi thở để khỏi phân tán tư tưởng. Có thể sử dụng cách lần chuỗi bằng tay với những chuỗi 24 hạt (hoặc hơn nữa) để kiểm soát được số hơi thở ở mỗi âm quyết.

Sự rung động của những âm tiết trong quá trình thực hành Lục tự quyết có công năng kích hoạt để khai mở một số đại huyệt dọc theo hai mạch Nhâm và Đốc, giúp tăng cường sự trao đổi khí giữa nội khí và thiên địa khí và gia tăng chân khí.

Lục tự khí công là một phương pháp hô hấp tích cực. Thở sâu xuống bụng dưới giúp phát sinh nội khí ở đan điền. Kéo dài hơi thở ra giúp gia tăng sự trao đổi chất ở các mô và các tế bào. Ép sát bụng dưới có thể tăng cường chức năng xoa bóp nội tạng của cơ hoành, kích thích tiêu hóa và sự lưu thông khí huyết.

Đối với hệ thần kinh, việc tập trung tư tưởng trong quá trình thực hành Lục tự quyết, đặc biệt thì thở ra chậm và dài, có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, giúp giải tỏa những triệu chứng bệnh lý do căng thẳng tâm lý gây ra.

Do quá trình thở khí ra, Lục tự khí công được xem là một loại công phu thiên về tả thực và khử trọc. Trọc khí không chỉ thoát ra bên ngoài theo hơi thở ra ở miệng mà còn qua các huyệt vị và kinh lạc tương ứng với âm quyết và cả tay chân. Do đó, khi thực hành để chữa những bệnh như u, bướu, xơ hóa…, người tập không nên ngồi kiết già để trọc khí dễ dàng thông thoát ra 2 chân.

Tác dụng khử trọc hay thanh tẩy của Lục tự khí công không phải chỉ bắt đầu từ kinh lạc hoặc phủ, tạng mà phát triển ngay từ những trung tâm năng lượng ở cột sống nên còn gọi là tẩy tủy. Điểm đặc biệt của Lục tự khí công là hoạt hóa hai đường kinh, một lên một xuống ở hai bên của cột sống, qua đó gia tăng khả năng thanh hóa tủy sống.

Sau một thời gian thực hành, những người có khí cảm tốt có thể nhận biết được một luồng khí từ xương cùng đi lên dọc theo rãnh bên trái của cột sống. Khi đến đỉnh đầu, luồng khí này sẽ theo rãnh bên phải cột sống đi xuống xương cùng. Đến xương cùng, luồng khí này sẽ tự động kích hoạt chơn hỏa đi lên mạch Đốc. Hiện tượng này trùng khớp với mô tả của những đạo sư yoga về 3 nguồn năng lượng chính dọc theo cột sống: luồng Ida mang năng lượng âm ở rãnh bên trái, luồng Pingala mang năng lượng dương ở rãnh bên phải và luồng hỏa xà Kundalini theo đường Soushoumna ở giữa cột sống đi lên. Đối với Lục tự khí công, đây là một quá trình phát triển dần dà và tự nhiên, người tập không nên tùy tiện vận hành.

Khi thực hành Lục tự quyết, sau quá trình xả trọc khí sẽ là quá trình phản hồi tự nhiên, thu thanh khí thông qua chính những huyệt vị, kinh lạc mà trược khí đã được thải, ra. Do đó, Lục tự khí công nên phối hợp với tĩnh tọa để có thể tận dụng và phát huy quá trình phản hồi này trong việc thu thiên địa khí để tăng cường nội khí. Tĩnh tọa liền sau khi thực hành Lục tự quyết. Thời gian tĩnh tọa không giới hạn nhưng tối thiểu nên bằng với thời gian thực hành Lục tự quyết.

Tĩnh tọa được đề cập ở đây là phương pháp ngồi thiền tự nhiên, không cần vận khí, chỉ cần đạt đến tình trạng thư giãn và nhập tĩnh. Nhập tĩnh là tiến đến quá trình hòa hợp mà người xưa gọi là “thiên nhân hợp nhất” . Về mặt chữa bệnh, hòa hợp là sự cân bằng giữa âm và dương và sự hài hòa giữa ngũ tạng, lục phủ. Đây cũng là quá trình tự điều chỉnh, tự hồi phục của hệ thần kinh trung ương thông qua sự điều hòa của thần kinh giao cảm và cơ chế tương tác giữa thần kinh, thể dịch và nội tạng. Do đó nếu phối hợp với ngồi thiền, người tập sẽ không lo tập sai thứ tự hoặc sự sai biệt nhiều ít giữa các âm quyết.

Một trong những thứ tự để thực hành Lục tự quyết là thực hành theo thứ tự tương sinh. Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thứ tự đó là Hư, Ha, Ho, Hí, Suy, Hu.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Phát hiện đáng kinh ngạc của Mỹ: Tế bào ung thư sợ nhất là Tình yêu

Phát hiện đáng kinh ngạc của Mỹ: Tế bào ung thư sợ nhất là Tình yêu

Tiến sĩ David Hawkins là một bác sĩ giỏi nổi tiếng ở Mỹ, bệnh nhân của ông đến từ mọi nơi trên thế giới. Ông cho rằng, chỉ cần nhìn thấy bệnh nhân là ông biết người đó vì sao bị bệnh. Bởi vì nhìn người bệnh ông không bao giờ tìm thấy chữ ‘yêu’, chỉ thấy chữ ‘khổ, hận, phiền muộn’ bao bọc toàn cơ thể họ.

“Rất nhiều người bị bệnh vì không được yêu, ở họ chỉ thấy nỗi khổ và phiền muộn, tần số rung động thấp hơn 200 sẽ dễ bị bệnh”, ông cho hay. Tần số rung động chính là từ trường mà mọi người thường hay nói.

Ông cũng phát hiện ra rằng, những bệnh nhân thường có lối suy nghĩ tiêu cực. Tần số rung động của người trên 200 sẽ không bị bệnh. Ở người bệnh, tần số này thường thấp hơn 200. Tần số rung động của những người như thế nào là thấp hơn 200? Đó là những người hay oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, tần số của họ chỉ là 30, 40. Trong lúc trách móc người khác thì người này sẽ tiêu hao rất nhiều năng lượng, vì thế tần số rung động sẽ giảm thấp hơn 200, những người này có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Chỉ số rung động cao nhất là 1000, thấp nhất là 1. Ông nói, trong cuộc đời ông từng gặp người có tần số rung động cao nhất là 700, năng lượng trong cơ thể anh ta rất dồi dào. Khi những người này xuất hiện, họ sẽ làm lan tỏa đến từ trường của cả khu vực xung quanh. Lấy ví dụ, như khi bà tu sĩ Trisara lên nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, không khí cả hội trường rất tốt, tần số rung động rất cao, từ trường của bà làm cho cả hội trường đều cảm nhận được năng lượng tràn ngập sự tốt đẹp và ấm áp từ bà.

Khi người có năng lượng cao xuất hiện, từ trường của họ sẽ làm ảnh hưởng cho vạn vật trở lên tốt đẹp hơn. Còn với người có suy nghĩ tiêu cực, họ vừa làm tổn hại chính họ mà còn làm cho từ trường xung quanh cũng bị xấu đi, khiến mọi người cũng tiêu cực như họ.

TS Hawkins nói, ông đã từng làm bệnh án cho hàng triệu người, các chủng loại người khác nhau trên toàn thế giới, tất cả đều cho một đáp án giống nhau. Chỉ cần tần số rung động thấp hơn 200 là người đó sẽ bị bệnh. Trên 200 sẽ không bị bệnh, những suy nghĩ có tần số rung động trên 200 gồm có: quan tâm đến người khác, giàu lòng từ bi, nhân ái, hướng thiện, bao dung, độ lượng, v.v. Đây đều là những đức tính có tần số rung động rất cao, đạt đến mức 400 – 500.

Ngược lại, người có tính thù hằn, phẫn nộ, hay chỉ trích, trách móc, đố kị, đòi hỏi người khác, luôn tư lợi cá nhân, ích kỷ, không màng đến cảm nhận của người khác sẽ có tần số rung động rất thấp. Tần số rung động thấp là nguyên nhân dẫn đến các bệnh như ung thư, tim v.v.

Từ góc độ y học ông cho rằng, ý niệm có ảnh hưởng cực kì lớn đến sức khỏe con người.

Sau khi nghệ sỹ chơi đàn Violoncelle Sean của Nhật Bản bị bệnh ung thư, ông đã không ngừng chiến đấu với bệnh tật nhưng xem ra tình trạng ngày một nặng hơn. Ông quyết định thay đổi tâm trạng, chuyển sang yêu từng tế bào ung thư trong cơ thể mình. Ông lạc quan với cuộc sống, mọi việc ông đều luôn thấy vui vẻ và biết ơn các tế bào ung thư. Ông thấy cảm giác này rất tuyệt. Sau đó, ông đã quyết định yêu mọi thứ trong cuộc sống, bao gồm cả mỗi con người và mỗi sự việc.

Sau một thời gian, toàn bộ các tế bào ung thư đã không còn nữa, đây là kết quả nằm ngoài sức tưởng tượng của con người. Sau này, ông trở thành bác sĩ trị liệu nổi tiếng tại Nhật Bản. Đây chính là bản chất của cuộc sống: Tình Yêu.

Căn nguyên của tất cả bệnh tật là do trong cơ thể người bệnh thiếu tình yêu thương. Bệnh tật bị đẩy lùi một cách vô điều kiện là nhờ ‘yêu và được yêu’.

Sau khi đọc bài ở: http://chuyengiadinhduong.info/suc-khoe-gia-dinh/phat-hien-dang-kinh-ngac-cua-my-te-bao-ung-thu-so-nhat-la-tinh-yeu-95.html  (bài ở trên) mình quyết định tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này và tìm dịch được một bài ngắn gọn. Bản sách tiếng Anh đầy đủ chắc chờ ai rảnh thì phụ mới dịch nổi.

Bài báo tóm tắt ở trên cho ta biết tình yêu có thể chữa lành, nhưng tình yêu được nói đến ở đây là gì? Vui lòng đọc hết cái bài dịch dài ngoằng này để rõ hơn nhé.

Chúc các bạn có một buổi thưởng thức năng lượng tuyệt vời!

CÁC MỨC ĐỘ CỦA Ý THỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG

  1. Xấu hổ (20) – Cảm thấy tủi nhục – Khốn khổ: Mức độ xấu hổ rất nguy hiểm vì nó gần với cái chết. Chúng ta trốn tránh và ước rằng mình “vô hình” với mọi người. Xấu hổ phá hoại tình cảm và sức khỏe tâm lý, làm cho chúng ta dễ dẫn đến những bệnh về thể lý.
  2. Tội lỗi (30) – Đổ lỗi – Xấu xa: Tội lỗi biểu hiện trong hàng loạt các hình thức hối hận vì những gì mình đã hoặc không làm, tự buộc tội mình, khổ dâm. Trong vô thức, cảm thấy tội lỗi có thể là kết quả của một bệnh tâm thần nào đó. Có xu hướng dễ gặp tai nạn và mong muốn tự tử. Tội lỗi kích động sự giận dữ và biểu hiện của nó thường là sự giết hại.
  3. Thờ ơ/hờ hững (50) – Tuyệt vọng – Không còn gì để cứu chữa: Mức này có đặc trưng là sự đói nghèo, thất vọng, tuyệt vọng. Thế giới và tương lai trông thật ảm đạm. Sự thờ ơ là một trạng thái bất lực, nạn nhân của nó thiếu thốn về mọi mặt. Có thể dẫn đến cái chết thông qua tự tử thụ động.
  4. Đau buồn (75) – Hối tiếc – Bi thảm: Đây là mức độ của nỗi buồn, mất mát và phụ thuộc. Những người ở cấp độ này sống một cuộc đời tiếc nuối lâu dài và trầm cảm. Đây cũng là mức độ của tang tóc, sự mất mát người thân, hối hận về quá khứ. Khi đau buồn, người ta thấy đâu đâu cũng sầu thảm.
  5. Sợ hãi (100) – Sự lo ngại – Ghê sợ: Từ quan điểm của cấp độ này, thế giới sẽ nguy hiểm, đầy dẫy các cạm bẫy và các mối đe dọa. Khi sợ hãi là trung tâm, những sự kiện đáng lo ngại vô tận của thế giới nuốt chửng nó. Sợ hãi có thể ám ảnh và níu kéo ta dưới bất cứ hình thức nào. Sợ hạn chế sự phát triển của cá nhân và có thể dẫn đến ức chế.
  6. Dục vọng (125) – Thèm muốn – Thất vọng: Dục vọng hướng ta đến nỗ lực đạt được mục tiêu hoặc có được phần thưởng. Dục vọng cũng là mức độ của nghiện ngập, nó trở thành sự thèm muốn hơn cả cuộc sống của chính mình. Dục vọng làm cho ta tích lũy và tham lam. Dục vọng đưa bạn trên con đường thành tích.
  7. Giận dữ (150) – Ghét – Đối đầu: Khi một người bước ra khỏi sự thờ ơ và đau buồn, vượt qua sợ hãi như một cách của cuộc sống, họ bắt đầu ham muốn. Dục vọng dẫn đến thất vọng, do đó dẫn đến giận dữ. Giận dữ thể hiện bản thân rõ nhất ở sự oán hận và sự trả thù, do đó không kiên định và nguy hiểm. Giận dữ xuất phát từ sự thất vọng bởi ham muốn. Kết quả thất vọng thổi phồng tầm quan trọng của những ham muốn. Giận dữ dễ dàng dẫn đến hận thù, tác động “xói mòn” lên mọi lĩnh vực của cuộc sống con người.
  8. Kiêu ngạo (175) – Khinh bỉ – Đòi hỏi: Ngược lại ở các mức dưới, đa số cảm thấy tích cực (tốt) khi họ đạt đến mức độ này. Kiêu ngạo là phòng thủ và dễ bị tổn thương bởi vì nó phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Kiêu ngạo được thúc đẩy bởi sự ngã mạn tăng cao, rất dễ bị tấn công từ bên ngoài. Do đó nhược điểm của kiêu ngạo là sự ngông cuồng và sự từ chối. Những đặc tính ngăn chặn sự phát triển.
  9. Can đảm (200) – Quả quyết – Có thể làm được: Ở cấp độ 200 này năng lượng đầu tiên xuất hiện. Can đảm là vùng thăm dò, thành tựu, dũng cảm và quyết tâm. Ở các cấp độ thấp hơn thế giới được xem như vô vọng, buồn bã, sợ hãi hay bực bội. Nhưng ở cấp độ của cam đảm, cuộc sống được coi là đầy thú vị, thách thức và kích thích. Ở cấp độ này người ta có khả năng ứng phó và xử lý hiệu quả những cơ hội của cuộc đời đến với họ. Những trở ngại ở những cấp độ phía dưới giống như chất kích thích cho những người phát triển ở cấp độ năng lượng đầu tiên này. Ở các cấp thấp hơn, người ta lấy đi năng lượng nơi mà họ sống; còn ở cấp độ này người ta lấy đi và cho trở lại năng lượng đồng đều như nhau.

(Mức độ ý thức tập thể của nhân loại vẫn ở mức 190 trong nhiều thế kỷ qua, nhưng thật kỳ lạ nó tăng lên mức hiện tại là 207 trong một thập kỷ gần đây.)

  1. Trung lập/trung đạo (250) – Tin cậy – Đạt yêu cầu: Năng lượng rất tích cực khi chúng ta đến mức độ này. Dưới 250, ý thức có cái nhìn phân đôi (nhị nguyên, hai mặt) và cứng nhắc. Cái nhìn trung lập cho chúng ta sự trung tính và không phán xét, thẩm định thực tế vấn đề. Đây là mức độ an toàn. Mọi người ở cấp độ này dễ dàng sống chung an lạc với những người khác vì họ không quan tâm đến xung đột, cạnh tranh hay tội lỗi. Họ cảm thấy thoải mái và tương đối ổn định về cảm xúc. Thái độ của họ thường là không phán xét và không có mong muốn kiểm soát hành vi của người khác.
  2. Sẵn sàng (310) – Lạc quan – Đầy hy vọng: Đây là cấp độ ý thức được xem như cửa ngõ để đến với những cấp độ cao hơn. Ở cấp độ trung lập, công việc được thực hiện đầy đủ; nhưng ở mức độ sẵn sàng công việc được thực hiện tốt và thành công trong đa số. Trưởng thành rất nhanh chóng ở đây. Đây là những người được chọn vì sự tiến bộ. Bên dưới 200, người ta có xu hướng khép chặt mình lại, còn ở 310 này người ta mở rộng lòng mình ra. Ở mức độ này con người rất thân thiện, vì cộng đồng và sự thành công về kinh tế là điều tự nhiên được kéo theo. Những người ở mức độ này đóng góp cho người khác và cho xã hội rất nhiều, họ thật sự hữu ích. Họ sẵn sàng đối mặt với những vấn đề bên trong mình. Họ có năng lực phục hồi từ những khó khăn, nghịch cảnh và học hỏi những kinh nghiệm từ đó, họ cũng biết tự mình sửa sai. Họ buông bỏ được sự kiêu ngạo (175) sẵn sàng nhìn vào khuyết điểm của mình và học hỏi từ những người khác.
  3. Chấp nhận (350) – Tha thứ – Hài hòa: Ở mức độ này một sự biến đổi lớn diễn ra, với sự hiểu biết rằng chính mình là nguyên nhân và tác giả tất cả những trải nghiệm của cuộc đời mình. Những người dưới 200 có xu hướng bất lực và nhìn thấy mình là nạn nhân với lòng thương xót của cuộc đời. Điều này bắt nguồn từ niềm tin rằng hạnh phúc hoặc nguyên nhân của những vấn đề trong cuộc sống là “ở đâu đó ngoài kia”. Ở mức độ chấp nhận, không có gì là ở “ngoài” có khả năng làm cho người ta hạnh phúc, và tình yêu không phải là cái gì được cho hay lấy từ người khác; tất cả được tạo ra từ bên trong. Chấp nhận cho phép chúng ta tham gia cuộc sống theo cách của nó mà không cố gắng làm cho nó phù hợp với một chương trình nào đó. Các các nhân ở cấp độ này không quan tâm đến việc đúng hay sai mà thay vào đó là tìm ra những giải pháp để giải quyết những vấn đề. Mục tiêu lâu dài được ưu tiên hơn mục tiêu ngắn hạn. Tự giác và làm chủ nổi bật ở mức độ này.
  4. Lẽ phải (400) – Hiểu biết – Đầy ý nghĩa: Thông minh và lý trí được đặt lên hàng đầu. Đây là cấp độ của khoa học, y học; cũng là mức độ phổ biến của việc tăng năng lực tiếp thu, hiểu các khái niệm và sự lĩnh hội tri thức. Kiến thức và giáo dục làm chủ ở đây. Đây là mức độ của những người đoạt giải Nobel, chính khách lớn, thẩm phán tòa án tối cao. Einstein, Freud, và rất nhiều các nhà tư tưởng vĩ đại khác của lịch sử được “định chuẩn” ở đây. Những thiếu sót của mức độ này liên quan đến việc không phân biệt giữa những “biểu tượng” và những gì mà “chúng” đại diện. Lẽ phải tự nó không cung cấp những hướng dẫn đến sự thật. Nó tạo ra một lượng lớn thông tin và tài liệu hướng dẫn nhưng lại thiếu khả năng giải quyết mâu thuẫn trong dữ kiện và kết luận. Chính lẽ phải là một chướng ngại lớn để đạt được mức độ ý thức cao hơn. Vượt qua mức này không phổ biến lắm trong xã hội của chúng ta!
  5. Tình yêu (500) – Lòng tôn kính – Bắt đầu: Tình yêu mà phương tiện truyền thông đại chúng nói đến không phải là tình yêu ở mức độ này. Tình yêu mà xã hội nói đến khi bị thất vọng, nó thường cho thấy sự tức giận và sự phụ thuộc mà nó che đây. Tình yêu đó có thể chuyển sang oán ghét. Tình yêu thật sự không có tồn tại oán ghét. Sự oán ghét chỉ xuất phát từ sự kiêu ngạo (175). Tình yêu ở 500 này là tình yêu vô điều kiện, không thay đổi và vĩnh viễn. Nó không biến động và không ảnh hưởng vào các yếu tố bên ngoài. Yêu là một trạng thái của sự sống. Nó là sự nuôi dưỡng, ủng hộ và tha thứ. Tình yêu không phải là trí tuệ và không xuất phát từ tâm trí. Nó đến từ trái tim. Tình yêu tập trung vào sự tốt đẹp của cuộc sống trong tất cả những biểu hiện của nó và tăng cường điều này bằng sự tích cực. Chỉ có 0,4% dân số thế giới đạt đến mức này của sự tiến hóa ý thức.
  6. Vui sướng/hạnh phúc (540) – Yên lặng/Bình tĩnh – Hoàn thành: Khi tình yêu trở nên nhiều hơn và vô điều kiện hơn, nó bắt đầu sự trải nghiệm như sự vui sướng từ nội tâm. Niềm vui xuất phát từ mỗi khoảnh khắc của sự tồn tại chứ không phải từ nguồn nào khác. 540 là mức độ của sự chữa lành và căn bản của sự tự giúp đỡ tinh thần. Trên 540 là mức độ của các bậc Thánh nhân, và trên nữa là những “thầy chữa”. Một khả năng kiên nhẫn rất lớn và sự bền bỉ của một tinh thần tích cực khi đối diện với nghịch cảnh lâu dài là đặc trưng của mức độ này. Các dấu hiệu của mức độ này là tấm lòng từ bi. Những người ở mức độ này có ảnh hưởng (thu hút) tích cực đối với người khác. Họ có thể nhìn chăm chú rất lâu, và qua ánh nhìn đó trạng thái của tình yêu và hòa bình được lan tỏa. Ở mức độ trên 500 này, người ta thấy thế giới được chiếu sáng bởi vẻ đẹp tinh tế và hoàn hảo của sự sáng tạo. Tất cả mọi thứ diễn ra dễ dàng và đồng bộ.
  7. Hòa bình (600) – Cực lạc (niềm vui viên mãn) – Hoàn hảo: Đây là trạng thái cực kì hiếm, đạt được 1/10.000.000 (mười triệu) người. Khi trạng thái này đạt tới, sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng biến mất và không có điểm nhấn cụ thể của nhận thức. Nhận thức ở mức độ 600 và trên 600 đôi khi được báo cáo là xảy ra trong một chuyển động chậm bị đình chỉ trong không gian và thời gian – không có gì cố định, tất cả vẫn rất sống động và rực rỡ. Mặc dù thế giới này người ta nhìn thấy nó liên tục chảy, phát triển trong một điệu nhảy tiến hóa tinh xảo. Những tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc được hiệu chỉnh ở giữa 600 và 700 có thể đưa chúng ta tạm thời đến các cấp độ cao hơn của ý thức và được công nhận là một nguồn truyền cảm hứng vô tận.
  8. Giác ngộ (700 – 1000) – Không thể dạy thêm được nữa – Là chính nó: Đây là mức độ của các bậc thầy vĩ đại trong lịch sử, là mẫu mực của tinh thần mà vô số người theo đuổi ở bất kì tuổi nào. Đây là mức độ của nguồn cảm hứng mạnh mẽ. Thu hút và ảnh hưởng đến nhân loại. Đây là đỉnh cao ý thức tiến hóa trong cõi người. Ở cấp độ này không còn sự gắn buộc vào cơ thể vật lý là “tôi” này, và do đó sự sống chết, số mạng của nó cũng không đáng quan tâm. Cơ thể là công cụ của ý thức thông qua sự can thiệp của tâm trí. Giá trị chính của nó là giao tiếp. Đây là mức độ “bất nhị” (không hai/không phân biệt ta người), hoặc sự hợp nhất đã hoàn tất. Mức độ này đại diện của nó là những bậc thầy vĩ đại mà chúng ta công nhận: Krishna, Buddha và Jesus Christ,..

* Những sự thật thú vị:

– Các khái niệm và lý thuyết đằng sau những thí nghiệm được tiến hành trong khoảng thời gian 20 năm sử dụng một loạt các thử nghiệm Kinesiology (thử nghiệm đo năng lượng – vui lòng tìm hiểu thêm để rõ hơn) và các bài kiểm tra.

– Kinesiology cho kết quả chính xác 100% ở mọi lúc. Nó sẽ luôn cho thấy câu trả lời có, không, đúng, sai.

– Những sai lầm dẫn đến những phản ứng yếu ớt.

– Thông qua thử nghiệm người ta biết ai đó có đang nói thật hay không.

– Một mẫu hình mạnh mẽ được kết hợp với sức khỏe tốt, mẫu hình yếu đuối kết hợp với bệnh tật. Từng suy nghĩ, lời nói, hành động, cảm xúc sẽ là mô hình này hay mô hình kia. Mọi khoảnh khắc trong ngày của mình, chúng ta chọn một trong hai hướng: sức khỏe hoặc bệnh tật.

– Ý thức tập thể: Những thí nghiệm tiết lộ cho chúng ta biết rằng có một sức mạnh rất cao kết nối mọi thứ và tất cả mọi người. Nó cho thấy rằng sự thật luôn được biểu hiện dù tâm trí ta không có ý thức về nó. Thông qua các bài kiểm tra mọi người nhận ra được sự thật về những điều thậm chí họ không nhận thức được nó tồn tại.

– Mọi hiệu chỉnh ở mức độ từ thấp đến cao bao gồm sách, thực phẩm, nước uống, quần áo, người, động vật, các tòa nhà, xe hơi, phim ảnh, thể thao, âm nhạc,…

– Rất nhiều âm nhạc ngày nay có mức hiệu chỉnh dưới 200. Do đó dẫn đến những hành vi liên quan với mức năng lượng thấp hơn của ý thức.

– Hầu hết bộ phim sẽ làm suy yếu người xem chúng bằng cách đưa các mức năng lượng của mình xuống dưới 200 của ý thức.

– 85% nhân loại hiệu chỉnh dưới mức 200.

– Trung bình chung của ý thức nhân loại ở mức 207.

– Ý thức của con người được treo lủng lẳng dưới mức 200 (190) từ nhiều thế kỷ trước và đột nhiên nó tăng đến mức hiện tại (207) vào giữa năm 1980. Đối với thế giới, duy trì ở mức dưới 200 trong một thời gian dài sẽ gây ra sự mất cân bằng lớn và dẫn đến sự hủy diệt của toàn nhân loại.

– Sức mạnh của vài cá nhân ở đầu đối trọng với sự yếu kém của quần chúng:

  • 1 cá nhân ở mức 300 (ba trăm) đối trọng với 90.000 (chín mươi ngàn) cá nhân dưới mức 200.
  • 1 cá nhân ở mức 400 (bốn trăm) đối trọng với 400.000 (bốn trăm ngàn) cá nhân dưới mức 200.
  • 1 cá nhân ở mức 500 (năm trăm) đối trọng với 750.000 (bảy trăm năm mươi ngàn) cá nhân dưới mức 200.
  • 1 cá nhân ở mức 600 (sáu trăm) đối trọng với 10.000.000 (mười triệu) cá nhân dưới mức 200.
  • 1 cá nhân ở mức 700 (bảy trăm) đối trọng với 70.000.000 (bảy mươi triệu) cá nhân dưới mức 200.
  • 12 cá nhân ở mức 700 sẽ bằng 1 cá nhân như Krishna, Buddha hay Jesus Christ,..

– Khi ý thức của một cá nhân nào giảm xuống 200 tại bất kì thời điểm nào, họ sẽ mất đi sức mạnh và do đó phát triển yếu ớt và dễ bị môi trường sống xung quanh thao túng/ảnh hưởng xấu.

Super Black Cat dịch

14/04/2016

Tham khảo bảng tiếng Anh ở đây: http://sttpml.org/wp-content/uploads/2014/06/David-Hawkins-Power-Vs-Force.pdf

 

 

 

 

 

Đây mới là cảnh giới cao nhất của thông minh

Đây mới là cảnh giới cao nhất của thông minh

Đài Bắc có một người kinh doanh bất động sản, thời trai trẻ nhờ sự khôn khéo nổi tiếng trong nghề. Ông lúc đó, tuy rất có đầu óc mua bán, làm việc cũng thành thục giỏi giang, nhưng đã lăn lộn nhiều năm, sự nghiệp không những không có khởi sắc, sau cùng còn bị tuyên bố phá sản.

Trong khoảng thời gian đau buồn đó, ông không ngừng phản tỉnh nguyên nhân thất bại của mình, nhưng dù có nghĩ đến nát óc cũng không tìm được câu trả lời.

Luận về tài trí, luận về chuyên cần, luận về mưu kế, ông vốn không hề thua kém ai, tại sao người khác lại thành công, còn ông thì cách thành công mỗi lúc một xa? Trong lúc tâm trạng chán nản, ông đi ra đường phố lang thang vô định, đi ngang qua một quầy bán báo, liền mua lấy một tờ báo tùy tiện lật xem.

Đang đọc đang đọc, trước mắt ông bỗng sáng rực lên, một đoạn thoại trên trang báo như ánh chớp vụ sáng trong trí óc ông. Về sau, ông đã lấy 10 nghìn tệ làm tiền vốn bước vào thương trường lần nữa.

Ảnh minh họa: shutterstock
Ảnh minh họa: shutterstock

Lần này, việc làm ăn của ông giống như được thi triển ma thuật, từ cửa hàng tạp nhạp đến hãng xi măng, từ người chủ thầu đến người chủ kinh doanh bất động sản, trong suốt chặng đường đều thuận buồm xuôi gió, người ở chốn thương trường lần lượt tìm đến làm ăn hợp tác với ông. Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, tài sản của ông đã lên tới mức khổng lồ, trở thành kỳ tích trong giới thương nghiệp.

Có rất nhiều kí giả hỏi ông bí quyết ông chỉ tiết lộ 4 chữ: “chỉ lấy 6 phần”.

Lại thêm mấy năm, tài sản của ông như cục tuyết lăn xuống dốc, càng lăn càng phình to ra.

Một lần, ông đến diễn thuyết ở một trường đại học, lúc này không ngừng có sinh viên đưa ra câu hỏi, hỏi ông từ mười nghìn biến thành chục tỷ rốt cuộc có bí quyết gì. Ông cười trả lời rằng, bởi vì tôi mãi kiên trì lấy bớt hai phần. Đám sinh viên nghe xong như rơi vào trong đám mây mù.

Nhìn thấy ánh mắt khát mong được thành công của đám sinh viên, cuối cùng ông đã kể ra câu chuyện trước đây. Ông nói, năm đó ở ngoài đường ông đọc được bài viết phỏng vấn một doanh nhân thành đạt trong giới thương nghiệp, sau khi đọc xong ông vô cùng chấn động.

Ký giả hỏi vị doanh nhân thành đạt đó: “Bố ông rốt cuộc đã dạy ông bí quyết kiếm tiền thế nào vậy?”. Ông trả lời rằng: “Bố tôi vốn chưa từng dạy tôi cách kiếm tiền, mà chỉ dạy tôi một vài đạo lý đối nhân xử thế”.Vị ký giả không tin.

Vị doanh nhân thành đạt lại nói: “Bố tôi từng căn dặn, con hợp tác với người khác, nếu như con lấy bảy phần hợp lý, tám phần cũng được, thế thì nhà chúng ta chỉ lấy sáu phần là được rồi”.

"...hợp tác với người khác, nếu như con lấy bảy phần hợp lý, tám phần cũng được, thế thì nhà chúng ta chỉ lấy sáu phần là được rồi" (Ảnh minh họa: Hanoilaw.vn)
“…hợp tác với người khác, nếu như con lấy bảy phần hợp lý, tám phần cũng được, thế thì nhà chúng ta chỉ lấy sáu phần là được rồi” (Ảnh minh họa: Hanoilaw.vn)

Nói đến đây, ông xúc động nói, đoạn phỏng vấn này tôi đã xem không dưới một trăm lần, sau cùng đã hiểu được một đạo lý:

Cảnh giới làm người cao nhất là phúc hậu, vậy nên cảnh giới cao nhất của thông minh cũng là phúc hậu.

Nghĩ kỹ một chút thì biết được ngay, nếu như luôn để người khác kiếm được nhiều hơn hai phần, mỗi người đều biết hợp tác với anh ta sẽ có được lợi thế, vậy nên sẽ có càng nhiều người nguyện ý hợp tác với anh ta.

Như vậy thứ nhất, tuy anh ta chỉ có thể lấy 6 phần, nhưng lại có nhiều hơn trăm mối làm ăn, còn nếu như lấy 8 phần, trăm mối làm ăn sẽ chỉ còn lại năm. Rốt cuộc bên nào lời hơn đây? Bí quyết chính là ở chỗ đó.

Nhiều mối làm ăn hơn đến với bạn nếu như bạn hiểu được và biết cách chia sẻ lợi nhuận (Ảnh minh họa: saga.vn)
Nhiều mối làm ăn hơn đến với bạn nếu như bạn hiểu được và biết cách chia sẻ lợi nhuận (Ảnh minh họa: saga.vn)

Sai lầm lớn nhất mà tôi phạm phải lúc đầu chính là quá tinh ranh, luôn nghĩ đủ cách để kiếm thêm tiền trên người đối phương, cho rằng kiếm được càng nhiều, thì càng thành công, kết quả là, trước mắt thì kiếm được nhiều, nhưng lại thua mất tương lai.

Sau khi buổi diễn giảng kết thúc, ông từ trong ví lấy ra một tờ báo đã ngả vàng, chính là tờ báo đưa tin về vị doanh nhân thành đạt đó, nhiều năm nay, ông luôn cất giữ cẩn thận. Ở khoảng trắng của tờ báo, có một hàng chữ  viết bằng bút lông: 7 phần hợp lý, 8 phần cũng được, thế thì tôi chỉ lấy 6 phần.

Thắng nhỏ nhờ vào trí tuệ, thắng lớn nhờ vào phúc đức, chỉ cần tích lũy đều đặn, khí thế sẽ tựa cầu vồng. Chỉ lo chạy theo lợi nhuận, đó là hành vi của kẻ tầm thường; hiểu được chia sẻ lợi nhuận, ấy là nghĩa lớn của người siêu thường.

Đời người trăm năm, vốn không thể hưởng trọn hết thảy vinh hoa của thế gian; ban ơn cho người khác, có thể nhận được càng nhiều tình cảm chân thành của nhân gian.

Khi ta mang đến phúc lành cho người khác, trên thực tế là đang trải rộng con đường cho chính bản thân mình! Người mà phúc hậu, con đường nhân sinh khi nào cũng rất rộng rất dài ….

Ref: http://www.daikynguyenvn.com/van-hoa/day-moi-la-canh-gioi-cao-nhat-cua-thong-minh.html

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu

Đôi khi loại người đáng sợ nhất trên thế gian, không phải là tiểu nhân, cũng không phải là người xấu mà là người mù quáng.

Cái gọi là mù quáng là khi người đó không biết bản thân mình vô tri, thậm chí còn tin rằng mình đúng. Họ không chịu nghe lời khuyên của người khác, và còn làm theo những mơ mộng hão huyền của bản thân, hại người hại mình.

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu
Người mù quáng cứ như kẻ lạc lối trong sa mạc… (Ảnh minh họa: Internet)

Dưới đây xin kể ba câu chuyện “mù quáng” mà có thể bạn đã từng gặp trong cuộc sống:

1. Có một người đàn ông hiền lành, nhưng từ khi bị công ty cho thôi việc thất nghiệp thì luôn chán nản trốn ở nhà. Chi tiêu của gia đình anh ta hàng tháng, bao gồm tiền nhà, học phí của con nhỏ, đều do vợ của anh này kiếm được từ việc làm kế toán ở nhà hàng.

Tuy mọi người đều rất nhiệt tình giúp đỡ người này tìm công việc, nhưng anh ta cứ chưa làm được vài ngày thì không muốn đi làm nữa. Sau đó, anh ta bắt đầu đi cờ bạc, ban đầu kiếm được chút tiền, sau thì thua rồi lại thua, đến học phí của con và sinh hoạt phí đều cầm đi đánh bạc.

Nửa đêm hàng xóm thường nghe thấy vợ chồng anh này cãi nhau. Sau, hai người cãi ra đến bên ngoài, muốn người ngoài phân xử. Anh ta cho rằng mình chỉ muốn gỡ vốn lại chứ không phải là do anh ta thích bài bạc. Anh ta đã biết được bí quyết thắng tiền rồi, chỉ cần cho anh ta chút vốn nữa thôi, anh ta sẽ thắng rất nhiều tiền mang về nuôi gia đình. Vợ của anh ta thì vừa khóc vừa nói, tiền trong nhà đã bị mang đi sạch từ lâu rồi, bây giờ trong túi chỉ còn chút tiền cũng là mượn ở nhà mẹ đẻ, nếu lại mang đi thì con nhỏ biết lấy gì mà ăn? Người ta nói anh ta sai rồi. Anh ta bẽ mặt bỏ nhà đi.

Sau này, nghe nói anh ta vay xã hội đen rất nhiều và không còn quay về nữa…

2. Ở địa phương nọ có một nhà khá giả, có ba người con gái. Ba chị em này rất yêu thương nhau, dù đi học hay về nhà đọc sách hoặc đi ngủ thì họ đều làm cùng nhau, không muốn tách rời. Thời đó, họ đã trở thành giai thoại ở địa phương.

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu
(Ảnh minh họa qua Wisegeek)

Sau này, khi lớn lên đi lấy chồng, cô cả và cô hai vẫn sống gần nhà bố mẹ, tình cảm vẫn tốt như xưa. Chỉ có cô em út gả đi xa, cho một doanh nhân nọ.

Chẳng được vài năm, chồng của cô em út hình như làm ăn không thuận lợi, nợ nần chồng chất. Một ngày nọ, cô em về nhà, yêu cầu cha mẹ chia tài sản, họ nghe thế thì suýt chút nữa bị ngất. Hai cô chị cũng mắng cô em bất hiếu, nhưng cô em vừa khóc vừa la hét rằng cô ấy rồi cũng sẽ lấy phần tài sản đó, bây giờ cô ta thiếu tiền nên muốn lấy trước thì có gì sai.

Cha mẹ không nói được gì, cuối cùng họ đồng ý chia tài sản nhà cửa thành ba phần. Cô em lại khóc om sòm lên, nói là phải chia làm bốn phần, cô ta lấy hai phần, bởi vì chị cả và chị hai không nợ nần gì, chồng họ lại kiếm được tiền, còn chồng cô ta nợ nần chồng chất. Cô em nói rằng chẳng lẽ cả nhà đều nhẫn tâm nhìn cô ta chết không cứu hay sao? Không sợ cô ta về già không có chỗ dựa hay sao?

Chị cả và chị hai nghe xong thì rất buồn. Thực ra, họ hoàn toàn không để ý gì đến số gia sản đó, mà họ chỉ băn khoăn không biết từ khi nào mà em gái lại trở nên thực dụng ích kỷ, không nói lí lẽ như vậy. Cô em biết cha mẹ chiều mình, nên cứ gào khóc, còn giả vờ tuyệt thực. Cuối cùng, cả nhà chỉ còn cách làm theo lời cô ta. Chị cả và chị hai bắt đầu xa cách với cô em, và dần dần họ gần như trở thành người xa lạ.

Chỉ vì gia sản mà cắt đứt cả duyên phận với gia đình… Có đáng không?

3. Có một người phụ nữ vừa mới kết hôn mấy tháng mà đã ly hôn, nguyên nhân là cô ấy không muốn “sống mà phải nhìn sắc mặt người khác”. Cô ấy nói rằng sau khi kết hôn với người chồng làm quản lý cao, thu nhập khá, cô ấy không làm việc ở nhà rảnh rỗi. Chính vì thế, lâu lâu cô lại đi mua sắm quẹt thẻ, nhiều lắm thì cũng chừng “chục triệu”.

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu
(Ảnh minh họa: Internet)

Chồng cô ấy nhiều lần nhìn hóa đơn quẹt thẻ, sau rồi cuối cùng không nhịn được nói là muốn hạn chế mức tiêu của cô ấy. Cô ấy tức lắm nên ném thẻ vào mặt chồng và bảo mình muốn đi làm kiếm tiền. Sau đó cô ấy tự mình đi làm thuê, tích góp được bao nhiêu thì lại đi mua sắm, sống cuộc sống của riêng mình, không muốn nhìn sắc mặt người khác nữa.

Sau này có người quan tâm, mới hỏi cô ấy rằng chồng cũ của cô kiếm được bao nhiêu một tháng? Cô ấy lúc đó vẫn rất đắc ý khoe là “không nhiều, chỉ khoảng vài ba chục triệu thôi”, vậy mà ki bo không cho cô ấy đi mua sắm. Người ta nghe xong, trong lòng bắt đầu cảm thấy tiếc cho cuộc đời của cô ấy…

Nhìn từ góc độ khách quan, chồng cũ của cô ấy không phải là kẻ nhỏ nhen, và cũng là một người bao dung. Nhưng chính sự kích động của cô ấy lại là điểm mấu chốt kết thúc duyên nhận của hai người họ. Dù một người đàn ông làm đến chức quản lý có thu nhập cao đi nữa, áp lực công việc cũng rất lớn. Hẳn là anh ấy cũng sợ bà xã lo lắng nên mới không để cô ấy biết mình làm việc vất vả thế nào. Kết quả là cô ấy chẳng những không biết hạnh phúc mà còn cảm thấy thật bất công.

Duyên giữa người với người sâu hay nhạt, dài hay ngắn, liệu sẽ trở thành thiện duyên hay nghiệt duyên, rất nhiều khi là do sự mù quáng quyết định. Đã có duyên quen biết nhau trong cõi đời này, thì nên giữ cho bản thân tỉnh táo, biết lắng nghe, biết suy nghĩ về bản thân mình, đừng làm người mù quáng.

Đôi khi loại người đáng sợ nhất không phải là kẻ tiểu nhân, cũng không phải là người xấu
(Ảnh minh họa: Internet)

Vậy làm thế nào để không mù quáng? Người xưa nói: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, ấy là có ý rằng, nhiều khi sự việc mình nhìn thấy, nghe thấy, suy nghĩ thấy lại chưa hẳn đã là việc chân thật. Người ta thường hay bị tâm lý bất bình, tham lam, ghen tức, sợ này sợ kia, tranh tranh đấu đấu mà khiến cho sự việc trở nên nặng nề. Nếu khi có mâu thuẫn, người ta có thể nhìn xem trong nội tâm mình đang còn vướng bận điều gì, còn gì chưa tốt, thì cách người ta nhìn sự việc sẽ khác đi, môi trường cũng từ sự thay đổi tư duy và hành động mà chuyển biến. Còn nếu khi gặp mâu thuẫn mà cứ nhìn vào lỗi lầm của người khác, yêu cầu người khác thế này, thế kia, thì người ta sẽ luôn ở trong mâu thuẫn, sẽ luôn “mù quáng”. Mâu thuẫn có được “làm lành”, nhưng nội tâm chưa được rộng mở, thì mâu thuẫn rồi sẽ lại đến mà thôi…

Người ta không thể “quản” được người khác.
Người ta chỉ có thể thay đổi chính mình.
Làm được vậy thì mới “không mù quáng”.

Thanh Trúc

Trong lòng bạn đang như thế nào, thì cuộc sống của bạn chính là như vậy

Trong lòng bạn đang như thế nào, thì cuộc sống của bạn chính là như vậy

Giá trị một tảng đá là bao nhiêu? Tùy vào vị trí bạn đặt nó thôi. Giá trị của một người đáng bao nhiêu? Hoàn toàn tùy thuộc vào nền tảng căn bản của sinh mệnh đó.

Tiểu hòa thượng ôm tảng đá ra chợ bán, chuyện xảy ra tiếp theo khiến nhiều người tỉnh ngộ (Ảnh minh họa: internet)

Một tảng đá bình thường tựa như không đáng nổi một đồng lại có thể bán được với các loại giá khác nhau. Câu chuyện thú vị này thực sự sẽ truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta.

Một ngày nọ, tiểu hòa thượng chạy tới thỉnh giáo lão hòa thượng: “Sư phụ, đời người ta có giá trị lớn như thế nào?”

Lão hòa thượng nói: “Ngươi hãy ra sau hoa viên, dọn sạch một tảng đá, sau đó đem ra chợ bán. Nếu có người hỏi giá, ngươi không cần phải nói gì, chỉ cần chìa hai ngón tay ra. Nếu người ta trả giá, thì ngươi cũng không cần bán, cứ ôm đá về. Sư phụ sẽ nói cho ngươi biết, giá trị nhân sinh lớn như thế nào!”

Vâng lời sư phụ, vừa rạng sáng hôm sau, tiểu hòa thượng đã ôm tảng đá lớn, mang ra chợ bán.

Trong chợ người đến người đi, mọi người rất tò mò, có một bà chủ đi tới hỏi: “Tảng đá này bán bao nhiêu tiền?”. Tiểu hòa thượng không nói gì, chỉ giơ hai ngón tay ra.

Bà chủ nói: “Là 2 đồng?”. Hòa thượng lắc đầu, bà chủ kia lại nói: “Như vậy là 20 đồng? Được rồi, được rồi! Ta sẽ mua về để nén dưa muối”.

Tiểu hòa thượng nghe thấy thế thì thầm nghĩ: “Ôi, tảng đá không đáng một đồng này lại có người bỏ ra 20 đồng để mua! Chúng ta trên núi còn có rất nhiều!”.

Sau đó, nghe lời dặn của sư phụ, tiểu hòa thượng vẫn không bán, hớn hở ôm đá chạy về gặp sư phụ:

“Sư phụ, hôm nay có một vị thí chủ nguyện ý bỏ ra 20 đồng để mua tảng đá. Sư phụ, ngài bây giờ có thể nói cho con biết, đời người ta có giá trị lớn như thế nào đi!”.

Thiền sư nói: “Không vội, ngươi sáng mai hãy đem tảng đá kia đến nhà bảo tàng, nếu có người hỏi giá, ngươi cứ như cũ giơ 2 ngón tay ra. Nếu người ta trả giá, ngươi vẫn không bán, tiếp tục ôm đá về, chúng ta sẽ bàn tiếp”.

Sáng sớm ngày hôm sau, ở trong viện bảo tàng, một đám người tò mò vây lại xem, xì xào bàn tán:

Một khối đá bình thường như thế này, có giá trị gì đâu mà đem vào viện bảo tàng chứ?”.

“Nếu tảng đá này được bày biện trong viện bảo tàng, thì nó nhất định có giá trị, chỉ là chúng ta không biết mà thôi”.

Lúc này, có một người từ trong đám đông đi tới, lớn tiếng nói với tiểu hòa thượng:

“Tiểu hòa thượng, tảng đá này giá bao nhiêu tiền vậy?”. Tiểu hòa thượng không nói gì, chỉ giơ hai ngón tay ra.

Người kia nói: “200 đồng?”. Tiểu hòa thượng lắc đầu, người kia lại nói: “Vậy thì 2.000 đồng đi. Tôi muốn mua nó để điêu khắc một pho tượng Phật”.

Tiểu hòa thượng nghe đến đó, lùi lại một bước, vô cùng kinh ngạc. Cậu vẫn theo lời dặn của sư phụ, không bán và ôm tảng đá kia về núi:

“Sư phụ, hôm nay có người muốn bỏ ra 2.000 đồng để mua tảng đá kia. Bây giờ thì ngài nói cho con biết, giá trị của đời người lớn nhất là gì đi!”.

Lão hòa thượng cười nói: “Ngươi ngày mai hãy đem tảng đá kia đến tiệm đồ cổ, vẫn giống như cũ, có người trả giá thì hãy đem nó về. Lúc đó, sư phụ nhất định sẽ nói cho ngươi biết, đời người giá trị như thế nào”.

Ngày thứ ba, tiểu hòa thượng lại ôm tảng đá kia đi tới một cửa hàng đồ cổ, vẫn giống như trước, một số người vây lại xem, rồi bàn tán: “Đây là đá gì? Khai quật ở đâu vậy? Có từ triều đại nào? Là dùng để làm gì đây?”.

Cuối cùng có một người tới hỏi giá: “Tiểu hòa thượng, tảng đá này bán bao nhiêu tiền?”.

Tiểu hòa thượng vẫn như cũ, im lặng không nói, chỉ giơ hai ngón tay lên.

“2.000 đồng?”. Tiểu hòa thượng nghe vậy thì trố mắt, há hốc mồm, kinh ngạc thốt lên: “Hả?”.

Vị khách kia nghĩ là mình trả giá quá thấp, đã chọc tức tiểu hòa thượng, lập tức chữa lời: “À không! Không! Tôi nói nhầm, tôi sẽ trả cho cậu 20 vạn tiền”.

“20 vạn”. Tiểu hòa thượng nghe đến đó, lập tức ôm lấy tảng đá, chạy vội về núi gặp sư phụ. Vừa tới nơi, cậu thở hổn hển nói: “Sư phụ, sư phụ, bây giờ chúng ta có thể phát đạt rồi. Hôm nay có thí chủ trả giá 20 vạn tiền để mua tảng đá này! Giờ thì ngài nói cho con biết, giá trị lớn nhất của đời người là gì đi!”.

Lão hòa thượng xoa đầu tiểu hòa thượng, từ bi nói:

“Tiểu tử à, cuộc đời ngươi có giá trị lớn ngần nào, cũng giống như tảng đá kia vậy. Nếu ngươi đem mình ra chợ bán, ngươi chỉ có giá 20 đồng; nếu ngươi đem mình vào trong viện bảo tàng, ngươi liền có giá trị 2.000 đồng; nếu ngươi đem mình đặt ở tiệm đồ cổ, người có giá 20 vạn đồng! Nền tảng khác nhau, sẽ đặt định vị trí khác nhau, giá trị nhân sinh cũng sẽ vì đó mà hoàn toàn khác biệt!”

Câu chuyện này liệu có khiến bạn suy nghĩ về chính mình và tự hỏi, cuộc đời mình đang được đặt ở vị trí nào đây?

Bạn đã sẵn sàng đem cuộc đời mình bày biện ở phòng đấu giá nào chưa? Hay bạn muốn tìm một vũ đài như thế nào để cho bản thân mình phát triển?

Không sợ người khác coi thường, chỉ sợ bạn coi thường chính mình. Ai nói bạn không có giá trị? Trừ phi bạn đem mình giống như tảng đá kia, đặt trong đám bùn lầy. Không bất kỳ ai có thể quyết định cuộc đời của bạn sẽ ra sao. Bạn lựa chọn con đường như thế nào, thì bạn chính là quyết định cuộc đời mình như vậy.

Vì sao một ông chủ liên tiếp gặp khó khăn, cũng sẽ không dễ dàng buông xuôi, nhưng một công nhân hễ việc không thuận liền muốn bỏ việc. Vì sao một đôi vợ chồng liên tục cãi nhau, liên tục mẫu thuẫn, cũng sẽ không dễ dàng ly hôn; nhưng một đôi tình nhân bình thường hễ gặp một chuyện nhỏ lại có thể nhanh chóng đường ai nấy đi.

Nói cho cùng, bạn đang gặp một sự tình gì, trong một mối quan hệ đã được đầu tư nhiều hay ít bao nhiêu; sẽ quyết định bạn có thể chịu đựng bao nhiêu áp lực, có thể đạt được bao nhiêu thành công, có thể trụ vững bao lâu thời gian.

Người ta nói: Vĩ nhân, đại đa số là người có sức chịu đựng lớn vô cùng. Vì sao vậy?

Người bình thường không chịu nổi ủy khuất, cần phải được người khác động viên an ủi. Người bình thường đối với chuyện bất bình thì như muốn trút hết lòng tức giận, họ cần một bờ vai để khẽ dựa vào.

Còn bạn, hãy cố gắng làm được: Gặp bất cứ chuyện gì cũng sẽ mỉm cười, nhẹ nhàng bỏ qua, hơn nữa hãy làm một bờ vai để người khác dựa vào.

Hiếu Trang Hoàng Thái hậu từng nói với vua Khang Hi: “Tôn nhi, nước Đại Thanh mối nguy cơ không phải là thiên quân vạn mã ở bên ngoài. Mà nguy nan lớn nhất, chính là ở cái tâm của ngươi”.

Còn có đệ tử hỏi lão hòa thượng: “Sư phụ, ngài có lúc lại đánh người mắng người, nhưng có lúc lại nho nhã lễ độ với người khác. Điều này là vì sao vậy?”.

Sư phụ nói:

“Đối với người thượng đẳng lòng dạ ngay thẳng, thì có thể đánh có thể mắng, lấy chân diện mà đối đãi. Đối với người trung đẳng thì cần dùng phép ẩn dụ, cần giảng đúng mực, bởi hắn chịu không nổi trách mắng; Đối với người hạ đẳng thì cần mặt mỉm cười, hai tay hợp thập, bởi hắn rất yếu ớt, tầm mắt eo hẹp, chỉ nên dùng lễ tiết thế tục mà đối đãi.

Ngươi chịu được loại ủy khuất nào, thì sẽ quyết định ngươi trở thành loại người nào”.

Một người không biết bơi, cho dù có thay đổi bể bơi cũng không giải quyết được vấn đề;

Một người không biết làm việc, cho dù có thay đổi công việc thì cũng không giải quyết được năng lực của mình;

Một người không hiểu gì về tình yêu, thì có thay đổi bạn trai bạn gái cũng không giải quyết được điều gì;

Một người không biết trân quý gia đình, thì có đổi vợ đổi chồng vẫn vậy;

Một ông chủ không hiểu biết, tuyệt đối sẽ không kéo dài thành công.

Bản thân chúng ta là nguồn gốc của tất cả, vậy nên muốn thay đổi hết thảy, đầu tiên phải thay đổi chính mình!

Kỳ thực, dù yêu dù ghét, đều là chính bạn. Bạn thay đổi, thì hết thảy đều sẽ thay đổi.

Thế giới của bạn là do bạn sáng tạo ra; những gì của bạn hết thảy đều là do bạn sáng tạo ra.

Bạn là ánh mặt trời, thì thế giới của bạn sẽ tràn ngập ánh mặt trời ấm áp;

Bạn biết yêu thương, cuộc sống của bạn liền ngập tràn tình yêu thương và hạnh phúc.

Bạn nếu mỗi ngày đều phàn nàn, oán hận, soi xét, chỉ trích… thì cuộc sống của bạn sẽ tựa như trong địa ngục.

Một niệm lên Thiên đường, một niệm xuống Địa ngục. Trong lòng bạn đang như thế nào, thì cuộc sống của bạn chính là như vậy!

Nguồn: http://tinhtuy.org/van-hoa/trong-long-ban-dang-nhu-the-nao-thi-cuoc-song-cua-ban-chinh-la-nhu-vay.html

Trên đời này có 3 việc

Trên đời này có 3 việc

Những dòng văn tuyệt tác dành cho bạn trẻ

“Einstein nói: “Những người có khối óc vĩ đại luôn phải đối mặt với những chỉ trích kịch liệt từ những kẻ mang đầu óc tầm thường.”

Người có khối óc vĩ đại là người dám ước mơ và hành động để biến những ước mơ thành hiện thực, họ làm điều tốt cho người khác (dù không quen) chứ không chỉ là cho bản thân họ, gia đình họ như người tầm thường. Họ dám khác biệt, dám bước ra khỏi số đông đang lầm lũi từng ngày trong những niềm mơ vụn vặt, hẹp hòi (bằng cấp, nhà xe, địa vị, danh tiếng, rượu ngon….).

Những kẻ có khối óc nhỏ nhoi tự giam cầm mình trong những lo lắng. Họ đinh ninh rằng, nếu ta thành công, ta sẽ lấy mất đi phần của họ. Họ nào chịu mở to con mắt ra để thấy rằng vũ trụ này ắp đầy thịnh vượng, ai ai cũng có quyền hưởng lấy.

Nói cho cùng, vết hằn sâu nhất trong tim óc của những kẻ tầm thường là nỗi sợ về chính họ. Họ sợ họ sẽ chẳng thể nào làm được điều gì lớn lao như ta sẽ làm. Mang nỗi sợ ấy trong lòng, họ sẽ tìm đường trút hết mọi thất vọng, cay cú bằng những lời công kích, gièm pha, soi mói, nhạo cười, chỉ trích những gì ta đang làm, đơn giản là ta làm không giống họ, suy nghĩ không giống họ.

Những người có đầu óc lớn thường không bận lòng với những tiếng vo ve của thiên hạ. Họ không hoài công giải thích những điều lớn lao hay những điều họ làm cho những kẻ tầm thường, non nớt. Mãi mãi họ không hiểu hoặc sẽ mỉa mai “vâng tôi tầm thường thế đấy, nhưng mà anh đã x, y, z, lẽ ra anh phải a, b, c”, họ luôn muốn người khác thay đổi (theo ý họ) để họ vui. Mà lẽ ra, muốn tìm niềm vui thì người phải thay đổi là chính họ.

Chừng nào ta còn bận lòng với những gì người khác nghĩ về mình, thì ta vẫn còn giao trọn đời mình vào tay kẻ khác”.

(*) Trích từ sách “Shut up, Stop whining, Start living” của Larry Winget, người dịch: Nguyễn Thế Tuấn Anh, các bạn tìm mua ở các nhà sách nhé.

1. Chuyện cá nhân, dự định, công việc, học hành… của mình, âm thầm làm cho tốt. Không chia sẻ ai kể cả người thân trong gia đình (trừ người có tư duy tích cực hoặc rất kinh nghiệm trong lĩnh vực đó). Ví dụ khi khởi nghiệp. Không nên nói với vợ chồng cha mẹ, những người làm nông hoặc làm công ăn lương, họ sẽ vì thương mình mà ngăn cản ngay vì sợ thất bại. Hoặc khuyên trớt quớt vì họ có kinh nghiệm bao giờ. Nhưng họ sẽ “tích cực khuyên” theo cái họ xem trên tivi. Khuyên khôngđược là “cản” để thể hiện quyền lực hoặc sự bất lực.

Đi du học cũng vậy, chỉ chia sẻ với người từng đi du học, từng đi đây đi đó…vì nếu chia sẻ với người chưa từng đi đâu xa, họ sẽ khuyên là đừng đi, tiền đâu đi, học bổng khó lắm, đi không được đâu, vừa học vừa làm thì cực khổ lắm, hoặc coi chừng xả súng, khủng bố…theo tầm hiểu biết nhỏ nhoi của họ.

Muốn làm gì thì suy nghĩ kỹ rồi làm, không để ai can thiệp. Mình sai mình chịu. Mình đúng mình hưởng.

2. Chuyện của người khác, dù là của vợ/chồng, cha mẹ, con cái, anh em, đồng nghiệp, bạn bè…., họ không cho mình biết thì có nghĩa là mình không nên biết. Biết sẽ khổ. Việc tò mò theo dõi tin nhắn, điện thoại, fb, email, hỏi người này người kia…để tìm ra sự thật sẽ khiến mối quan hệ không còn tốt nữa. Tin tưởng thì sống chung, làm chung. Không tin thì ngay lập tức ngưng quan hệ hay hợp tác, dù sẽ khó chịu lúc đầu những sẽ thoải mái về sau. Không cố đấm ăn xôi hay cả nể hay sĩ diện. Không nên chia sẻ thông tin cá nhân để sự tò mò của người khác không có cơ hội trỗi dậy.

Tư duy cảm tính sẽ khó làm nên nghiệp lớn. Yêu hay ghét không ảnh hưởng đến sự việc. Yêu sẽ khiến mù quáng, dễ dẫn đến thất vọng. Còn ghét thì càng không vì “ghét ai tức là tự mình uống thuốc độc rồi mong người ta chết”. Tư duy làm tốt là tư duy LOGIC, việc gì đúng, việc gì sai, what’right, what’wrong và HẾT.

3. Trời đất mênh mông, vũ trụ vô ngần, chưa ai có thể hiểu hết được hệ mặt trời huống hồ gì cả thiên hà hàng tỷ mặt trời như thế. Chỉ biết là mỗi người có số phận, phúc phần….do họ tự tạo ra và gửi vào ngân hàng vũ trụ, người xưa nói là “trời cao có mắt” với người tốt và “lưới trời lồng lộng” với người xấu. Còn người không tốt không xấu thì có sao hưởng vậy.

Cứ làm tốt, giúp người, tâm sáng, nghĩ tốt, nghĩ tích cực, chia sẻ của cải và kiến thức cho người khác….thì may mắn sẽ tự tìm đến vào lúc mình không ngờ nhất. Còn không phải cầu xin hay cúng bái, vì nếu cái đó mà đúng, thì các bộ lạc châu Phi đã văn minh thịnh vượng hơn Âu Mỹ nhiều. Cầu xin là thụ động, thực tế là ai cũng xin và ai cũng mong cả, nhưng chẳng mấy ai được.

Những người CÓ thì lại là những người LÀM. Số phận trong tay mình. Đứng dậy và im lặng làm, thì sẽ có.

Sáng nay, trên TnBS.

GỖ THÔNG PALLET CÓ AN TOÀN CHO VIỆC TỰ LÀM MỘC?

GỖ THÔNG PALLET CÓ AN TOÀN CHO VIỆC TỰ LÀM MỘC?

Sự phát triển của phong trào DIY trong làm mộc giúp mọi người có thể dễ dàng tự mình làm các đồ dùng từ gỗ một cách thuận lợi khi có rất nhiều tài liệu, video và hình ảnh hướng dẫn chi tiết trên internet.

Trong các nguyên liệu được sự dụng để DIY mộc thì gỗ thông pallet là được ưa chuộng hơn cả bởi chi phí hợp lý, tuy nhiên liệu việc sử dụng nguồn gỗ tái chế này có an toàn hay không thì còn rất ít thông tin chia sẻ về vấn đề này.

LiK Việt Nam xin tổng hợp thông tin cách phân biệt các loại gỗ tư pallet cũng như tính an toàn của từng loại như sau:

A. PALLET LÀ GÌ?
Là một cấu trúc phẳng dùng để cố định hàng hóa khi hàng được nâng lên bởi một xe hay tời nâng hoặc các thiết bị vận chuyển khác. Pallet có cấu tạo cơ bản của một đơn vị lượng tải (unit load) cho phép di chuyển và xếp vào kho một cách hiệu quả.

Hầu hết các pallet làm bằng gỗ, tuy nhiên cũng có những loại pallet được làm bằng nhựa, kim loại, giấy, vật liệu tái chế. Mỗi loại vật liệu có những ưu nhược điểm khác nhau. Pallet gỗ là loại phổ biến nhất do kết hợp được các yếu tố giá thành rẻ, số lượng sản xuất không hạn chế theo đơn đặt hàng, chắc chắn, dễ sử dụng, thích ứng tốt với nhiều loại hàng hóa cũng như có thể sản xuất với đơn hàng số lượng nhỏ và là lựa chọn duy nhất cho hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa dùng pallet một lần.

go thong pallet co an toan khong

B. GỖ PALLET CÓ AN TOÀN ĐỂ SỬ DỤNG?

Dạo gần đầy rộ lên xu hướng chia sẻ kinh nghiệm tái chế gỗ pallet thành đồ dùng gia đình, khá tiết kiệm. Tuy nhiên cái gì cũng có mục đích của nó, gỗ pallet dùng để vận chuyển, gỗ dùng cho gia đình lại có những tiêu chuẩn khác. Điều đáng nói là gỗ pallet làm việc trong những môi trường rất khắc nghiệt, mưa nắng độ ẩm đủ loại thời tiết, thứ mà nó chuyên chở có thể là dầu, hóa chất độc hại và có thể bị dính vào, hoặc có những tấm pallet được xử lý hóa chất (ngâm, xịt) để trở nên bền hơn, hay sử dụng gỗ chứa ký sinh trùng, côn trùng có hại, tuyệt đối không sử dụng những tấm pallet này cho đồ gia đình.

C. PHÂN LOẠI PALLET GỖ
    1. Gỗ Pallet chuẩn quốc tế (IPPC)
IPPC: International Plant Protection Convention, Công ước Bảo vệ Cây xanh Quốc tế yêu cầu tấm pallet không được chứa côn trùng và ký sinh trùng, và được “xử lý”, hai ký tự ở kế bên thể hiện phương pháp xử lý.

[HT]: Xử lý bằng nhiệt (heat), đốt gỗ trong nhiệt độ 56-60 độ C. Gỗ xử lý nhiệt an toàn cho người.

[KD]: Xử lý bằng lò sấy (kiln-dried), tức cũng là nhiệt, nhưng “sấy” ở nhiệt độ có thể thấp hơn, mục đích là giảm lượng ẩm trong gỗ xuống. Một số lò sấy ở nhiệt độ tiêu chuẩn như xử lý nhiệt, nên có thể sẽ thấy ký hiệu kép là [KD-HT]. Một số loại gỗ cây khi sấy sẽ tiết nhựa cây ra, khiến gỗ nhìn loang lổ đen, hay có vẻ rất cũ. Không được đẹp, nhưng gỗ này lại an toàn sử dụng.

[DB]: Đã được bốc dỡ (debarked), loại này phổ biến nhất. Cái này có nghĩa là tấm gỗ đã được cắt ra, chứ không nói về phương pháp xử lý, nên thường nó sẽ đi chung với ký tự khác, vì vậy cần xem thêm ký tự còn lại để biết gỗ có an toàn không.

[MB]: Xử lý bằng thuốc trừ sâu (Methyl bromide), tấm gỗ được hun trong hóa chất diệt côn trùng. Đây là phương pháp bị cấm ở nhiều nước vì nó gây hại cho người vận chuyển. Gỗ MB cần hủy một cách chuyên nghiệp, không tái chế, không đốt, việc sử dụng có thể gây dị ứng, khó thở, các bệnh hô hấp. Không được loại gỗ này.
[Các ký tự khác] Đôi khi có các ký tự đặc biệt về xuất xứ, loại gỗ. Nếu bạn không search Internet được nó có nghĩa là gì, tránh sử dụng nó.
2. Gỗ Pallet châu Âu
Tấm gỗ châu Âu đơn giản hơn, đôi khi có hoặc không có logo của IPPC, mà chỉ có mã EPAL hoặc EUR. Tất cả gỗ châu Âu đều cấm xử lý hóa chất. Gỗ mã EPAL có nghĩa là được xử lý nhiệt (giống HT). Mã EUR nghĩa là loại cũ, dùng trong hệ thống tàu hỏa cũ của châu Âu, gỗ mã EUR vẫn có thể có thêm mã EPAL. Nói chung gỗ chỉ có mã EUR không tệ, nhưng có thêm mã EPAL thì càng tốt.

go thong pallet co an toan khong

3. Gỗ Pallet có màu
Tấm pallet có màu thường được đánh dấu để vận chuyển hóa chất, gỗ này được xử lý hóa chất rất nhiều để tăng độ bền, không sử dụng tấm pallet có màu.

go thong pallet co an toan khong
4. Gỗ Pallet không có ký hiệu gì cả
Có hai khả năng:
Đây là gỗ dùng một lần, trong vận chuyển vật liệu xây dựng nặng. Vì thường nóhư luôn sau khi vận chuyển nên người ta không gắn mã. Loại này thực ra an toàn,nhưng thường hư hỏng sẵn.Không phải nước nào cũng là thành viên của công ướcIPPC, nghĩa là không phải nước nào cũng xử lý gỗ theo tiêu chuẩn và có mã intrên tấm pallet. Việt Nam là thành viên của IPPC, vì vậy theo nguyên tắc gỗxuất xứ Việt Nam cũng phải có mã IPPC.

Do cả hai khả năng trên, tốt nhất, không sử dụng tấm pallet không có ký hiệu gì cả.
Nhìn chung, tấm gỗ pallet, dù an toàn, cũng được khuyến khích sử dụng cho các project ngoài trời hay ít tiếp xúc với người, vật nuôi, cây trồng, trong ga-ra. Không sử dụng tấm gỗ pallet làm thớt, hay các đồ dùng tiếp xúc trực tiếp với thức ăn.

Tóm lại, chỉ sử dụng tấm pallet nếu biết rõ về nguồn gốc, cách xử lý gỗ, tránh gỗ xử lý hóa chất [MB], gỗ có màu hay gỗ không có ký hiệu.

Bài viết tham khảo thông tin từ các nguồn chia sẻ đáng tin cậy về pallet: diễn dàn lammoc, thichlammoc, vantaidvn.

Ván gỗ công nghiệp – ưu khuyết điểm và cách phân loại

Ván gỗ công nghiệp – ưu khuyết điểm và cách phân loại

1. Gỗ Veneer

Là một lớp gỗ tự nhiên mỏng, được sử dụng làm bề mặt của sản phẩm gỗ. Gỗ Veneer được sản xuất từ việc lạng mỏng từ gỗ tự nhiên như gỗ sồi hoặc gỗ xoan đào. Nên bề mặt của gỗ veneer rất đẹp và tự nhiên. Các lớp gỗ bên trong tạo độ dày thì có thể dùng gỗ công nghiệp cho kinh tế. Khi gia công sản phẩm đồ gỗ, thợ thường gọi luôn gỗ sử dụng là gỗ veneer. Trong đó bao gồm cả gỗ công nghiệp được phủ bề mặt Veneer.

gỗ verneer

  • Ưu điểm: Dễ gia công, sử dụng được cho các công trình khó, vân gỗ tự nhiên, đẹp.
  • Nhược điểm: Là một lớp gỗ mỏng làm bề mặt nên dễ bị trầy sước, bong tróc. Thời gian sử dụng ngắn.
  • Thường được sử dụng làm vách, bàn ghế, tủ kệ trong nội thất sang trọng. Để chịu được nước, ẩm nên kết hợp với gỗ dán.

2. Gỗ PB – Particle board – Ván gỗ dăm lớn

Ván gỗ dăm PB

Là gỗ nhân tạo được sản xuất từ nguyên liệu gỗ rừng trồng (bạch đàn, keo, cao su, thông…), có độ bền cơ lý cao, kích thước bề mặt rộng, phong phú về chủng loại. Mặt ván được dán phủ bằng những loại vật liệu trang trí khác nhau: melamine, veneer (gỗ lạng)…

Ván dăm là nguyên liệu chủ yếu sử dụng để trang trí nội thất, sản xuất đồ mộc gia đình, công sở. Ván dăm được sản xuất bằng quá trình ép dăm gỗ đã trộn keo, tương tự như MDF nhưng gỗ được xay thành dăm, nên chúng có chất lượng kém hơn ván sợi. Công nghệ dán phủ mặt và cạnh ván thoả mãn nhiều yêu cầu về hình dạng và kích thước. Ván dăm trơn là loại phổ biến trên thị trường, khi sử dụng thường được phủ veneer, sơn, hoặc phủ PU. Gỗ ván dăm thường có độ dày từ 8 đến 32 mm.

Ưu điểm: Dễ thi công, sử dụng cho các công trình đơn giản, kích thước bề mặt gỗ lớn.

Nhược điểm: Là gỗ được dán ép kết hợp giữa gỗ dăm và keo nên rất sợ nước. Gặp nước thường bị bở.

Thường được sử dụng làm bàn ghế, tủ kệ trong nội thất. Để có bề mặt đẹp thường được sơn phủ hoặc dán lớp Veneer.

3. Gỗ MFC – Melamine Faced Chipboard – Ván gỗ dăm phủ Melamine

Ván gỗ dăm phủ nhựa Melamine (dòng gỗ này cũng có thể coi là một nhánh của PB) Có những cây gỗ được trồng chuyên để sản xuất loại gỗ MFC này. Các cây này được thu hoạch ngắn ngày, không cần cây to. Người ta băm nhỏ cây gỗ này và cũng kết hợp với keo, ép tạo độ dày. Hoàn toàn không phải sử dụng gỗ tạp, phế phẩm như mọi người vẫn nghĩ. Bề mặt hoàn thiện có thể sử dụng PVC tráng lên hoặc giấy in vân gỗ tạo vẻ vẻ đẹp sau đó tráng bề mặt hoàn thiện bảo vệ để chống ẩm và trầy xước.

Gỗ MFC

Ưu điểm: Dễ thi công, sử dụng cho các công trình đơn giản, kích thước bề mặt gỗ lớn.

Nhược điểm: Là gỗ được dán ép kết hợp giữa gỗ dăm và keo nên rất sợ nước. Gặp nước thường bị phồng.

Thường được sử dụng làm bàn ghế, tủ kệ trong nội thất.

4. Gỗ MDF – Medium Density fiberboard – Gỗ ép

Gỗ ép thuộc loại gỗ nhân tạo có độ bền cơ lý cao, kích thước lớn, phù hợp với công nghệ sản xuất đồ mộc nội thất trong vùng khí hậu nhiệt đới. Ván sợi được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực: sản xuất đồ mộc, trang trí nội thất, xây dựng. MDF được sản xuất qua quá trình ép sợi gỗ xay nhuyễn đã trộn keo, tỷ trọng từ 520-850kg/m3, tùy theo yêu cầu chất lượng, nguyên liệu gỗ, độ dày. MDF trơn là loại phổ biến nhất, khi sử dụng thường được phủ veneer, bả rồi phủ sơn PU. MDF chịu nước cũng thuộc loại MDF trơn, được trộn keo chịu nước trong quá trình sản xuất, thường sử dụng ở nơi có khả năng tiếp xúc với nước hoặc có độ ẩm cao như cánh cửa, đồ gỗ trong nhà bếp.

Gỗ MDF

Thuộc loại gỗ nhân tạo có độ bền cơ lý cao, kích thước lớn, phù hợp làm nội thất vùng khí hậu nhiệt đới. MDF được sản xuất bằng quá trình ép sợi gỗ xay nhuyễn đã trộn keo, tỷ trọng từ 520 đến 850 kg/m3, dày từ 2,5-20cm. Trên thị trường hiện có 3 loại chính là trơn, chịu nước và melamine.

MDF trơn là loại phổ biến nhất, khi sử dụng thường được phủ veneer, sơn hoặc phủ PU.

MDF chịu nước cũng thuộc loại MDF trơn, được trộn keo chịu nước trong quá trình sản xuất, thường sử dụng ở nơi có khả năng tiếp xúc với nước hoặc có độẩm cao như cánh cửa, đồ gỗ trong nhà bếp.

Melamine MDF, cả hai mặt ván MDF được phủ một lớp melamine nhằm tạo vẻ đẹp, chống ẩm và trầy xước.

Ưu điểm: Dễ thi công, sử dụng cho các công trình đơn giản, kích thước bề mặt gỗ lớn.

Nhược điểm: Là gỗ được dán ép kết hợp giữa gỗ dăm và keo nên rất sợ nước. Gặp nước thường bị phồng. Gỗ MDF chịu nước có giá thành cao.

Thường được sử dụng làm bàn ghế, tủ kệ trong nội thất.

5. Gỗ HDF – High Density fiberboard – Ván ép

Người ta cũng dùng bột gỗ/giấy trộn keo và ép lại tạo độ dày nhưng với cường độ nén và khả năng chịu cháy, chịu nước… cao hơn. Dòng gỗ CN này mọi người có thể thấy ở ván sàn công nghiệp, hầu hết là dùng loại này.

Gỗ HDF được định hình từ những sợi gỗ xay và keo đặc biệt phenol dưới áp suất và nhiệt độ cao, có vân giống như gỗ thật, dùng thay thế gỗ tự nhiên mà không làm mất đi tính thẫm mỹ vốn có của nó. HDF chuyên ứng dụng làm cửa với nhiều kiểu mẫu, sắc màu phong phú.

Gỗ HDF

Gỗ HDF có tác dụng cách âm khá tốt và khả năng cách nhiệt cao nên thường sử dụng cho phòng học, phòng ngủ, bếp…

Bên trong ván HDF là khung gỗ xương ghép công nghiệp được sấy khô và tẩm hóa chất chống mọt, mối nên đã khắc phục được các nhược điểm nặng, dễ cong, vênh so với gỗ tự nhiên.

HDF có khoảng 40 màu sơn thuận tiện cho việc lựa chọn, đồng thời dễ dàng chuyển đổi màu sơn theo nhu cầu thẩm mỹ.

Ưu điểm: Dễ thi công, sử dụng cho các công trình đòi hỏi chất lượng cao, kích thước bề mặt gỗ lớn. Độ bền tốt, chống sước và chống nước rất tốt. Giá chấp nhận được so với gỗ tự nhiên.

Nhược điểm: Là gỗ được dán ép nên vẫn có những nhà sản xuất đưa ra các sản phẩm rẻ nên vẫn sợ nước.

Thường được sử dụng làm bàn ghế, tủ kệ trong nội thất, sàn và đặc biệt là làm cửa.

6. Gỗ PW – Plywood – Gỗ ván ép – Gỗ dán

Gỗ ván ép Plywood được ép từ những miếng gỗ thật lạng mỏng và ép ngang dọc trái chiều nhau để tăng tính chịu lực. Gỗ này ko cần nói kỹ chắc nhiều người cũng biết rồi. Cái dòng gỗ này thường đi cùng với veneer để tạo vẻ đẹp rồi sơn phủ PU lên để bảo vệ bề mặt chống trầy xước và chống ẩm.

Gỗ Plywood

Được sản xuất từ nguyên liệu chính là gỗ rừng trồng. Ghép từ những thanh gỗ nhỏ đã qua xử lý hấp sấy. Gỗ được cưa, bào, phay, ghép, ép, chà và sơn phủ trang trí. Thường sử dụng làm trang trí nội thất, ván sàn… Gồm 4 kiểu ghép: ghép song song, ghép mặt, ghép cạnh, ghép giác.

Ghép song song gồm nhiều thanh gỗ cùng chiều dài, có thể khác chiều rộng, ghép song song với nhau.

Gỗ ghép mặt gồm nhiều thanh gỗ ngắn, ở hai đầu được xẻ theo hình răng lược rồi ghép lại thành những thanh có chiều dài bằng nhau, rồi tiếp tục ghép song song các thanh, cho nên chỉ nhìn thấy vết ghép hình răng lược trên bề mặt ván.

Ưu điểm: Dễ thi công, sử dụng cho các công trình đơn giản, kích thước bề mặt gỗ lớn.

Nhược điểm: Bề mặt gỗ xấu, là gỗ được dán keo nên rất sợ nước. Gặp nước thường bị bong giữa các lớp gỗ.

Thường được sử dụng làm bàn, vách, tủ kệ trong nội thất. Và cần phải phủ một lớp gỗ Veneer làm bề mặt.

Các loại ván gỗ công nghiệp này tuy có khác nhau về cách sản xuất nhưng nhìn chung có những ưu khuyết điểm chung sau đây:

Ưu điểm chung:

Dễ thi công và có giá thành rẻ. Thường được sử dụng trong các công trình văn phòng, nhà hàng với tuổi thọ của đồ ngắn. Tuổi thọ được khoảng 2-3 năm và nếu sử dụng đúng cách có thể lên đến hơn 5 năm.

Hạn chế chung:

Hạn chế của gỗ ván nhân tạo là không chịu được nước, vì thế không nên dùng ván nhân tạo đặt ở những nơi ẩm ướt như phòng tắm hay những cánh cửa bên ngoài thường tiếp xúc trực tiếp với môi trường tự nhiên. Riêng với sản phẩm ván sàn, tuy có thể lau chùi thường xuyên bằng nước nhưng vẫn bị hư hỏng nếu bị ngập nước trong một thời gian dài (đọng nước mưa, bể đường ống dẫn nước).

Nguồn: http://www.likvietnam.vn/vn/blog/tro-thanh-tho-moc/van-go-cong-nghiep-uu-khuyet-diem-va-cach-phan-loai

NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA GỖ MÀ BẤT CỨ AI MÊ LÀM MỘC PHẢI BIẾT

NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA GỖ MÀ BẤT CỨ AI MÊ LÀM MỘC PHẢI BIẾT

I. Sơ lược về Gỗ:

Gỗ được phân thành hai nhóm chính, gỗ mềm và gỗ cứng. Gỗ của cây lá kim (lá cây xanh quanh năm) được gọi là gỗ mềm và gỗ của cây lá rộng (lá rụng vào mùa thu) được gọi là gỗ cứng. Ví dụ:

Gỗ mềm: Bá hương, Linh sam Douglas, Linh sam, Thông, Vân sam.

Gỗ cứng: Tần bì, Bích, Anh đào, Mun, Dái ngựa, Sồi, Mận, Tếch, Óc chó, Cao su.

 

Tōtara một loại gỗ cứng New Zealand, có chiều cao tối đa 35m.

II. Các đặc tính khoa học của Gỗ

1. Tên thông dụng

Là (các) tên mà mọi người thường sử dụng khi nói về một loại gỗ nhất định, có thể sử dụng các tên thương mại được dùng bởi các đại lý gỗ để dễ nhớ hơn.Tuy nhiên trong vài trường hợp, để tránh mua nhầm loại thì tốt nhất chúng ta nên sử dụng tên khoa học của gỗ.

“Jatoba Brazilian Cherry” thực ra không phải là cây Anh đào (Cherry), mà là một loại cây họ đậu của họ Fabaceae

2. Tên khoa học

Tên khoa học là Tên thực vật để gọi tên chính xác hơn của một loại gỗ nhất định.

3. Trọng lượng khô trung bình

Là cách tính trọng lượng của gỗ liên quan đến khối lượng định sẵn.Tuy nhiên, trọng lượng gỗ cũng phụ thuộc rất nhiều vào độ ẩm của nó (MC).Ví dụ, một tấm ván vừa mới được cắt có thể nặng hơn gấp đôi so với trọng lượng khô của nó.Tiêu chuẩn đo lường phổ biến nhất cho hầu hết các kiểm tra gỗ được thực hiện trên toàn thế giới là độ ẩm (MC) 12%.

4. Độ cứng

Chỉ số này vô cùng hữu ích trong việc trực tiếp xác định độ bền của gỗ sẽ ảnh hưởng đến độ mài mòn cũng như dự đoán được trước độ khó khăn trong việc đóng đinh, bắt ốc vít, chà nhám hoặc cưa một loại gỗ nào đó.

pic4.jpg

Mô phỏng Kiểm định độ cứng

Lignum Vitae (Gỗ Thánh) – Loại cây gỗ cứng gấp 3 lần gỗ Sồi. Đây là loài cây biểu tượng quốc gia của Bahamas và là quốc hoa Jamaica

5. Độ bẻ gãy

Độ Bẻ Gãy (MOR), đôi khi được gọi là sức uốn, là chỉ số đo độ bền của gỗ trước khi bị gãy vỡ.Chỉ số này được sử dụng để xác định độ bền tổng thể của gỗ; Không giống như độ co dãn, nó là cường độ lực mà mẫu gỗ có thể chịu được trước khi bị gãy.

Mô phỏng Kiểm định độ bẻ gãy

6. Độ đàn hồi

Nói một cách đơn giản, độ đàn hồi (MOE) đo độ uốn cong và trả về hiện trạng cũ của gỗ và là chỉ số tổng thể tốt để đánh giá độ bền của gỗ khi bị lực tác động.Về mặt kỹ thuật, nó là thước đo tỷ lệ lực được tác động trên gỗ so với độ biến dạng của gỗ, dọc theo chiều dài của nó.

Mô phỏng Kiểm tra độ đàn hồi (MOE)

7. Độ chịu lực theo chiều dọc của sớ gỗ

Đây là phép đo độ chịu lực tối đa của gỗ khi trọng lượng được tác động ép vào các đầu của gỗ, đặc biệt trong các ứng dụng về chân ghế để ngồi lên, hoặc các trường hợp khác mà lực tác động theo chiều dọc của sớ gỗ (không theo chiều vuông góc).

crushing-train

Mô phỏng Kiểm tra độ chịu lực theo chiều dọc gỗ

8. Độ co rút

Độ co rút là số lượng gỗ co lại khi đi từ trạng thái gỗ tươi sang khô hoàn toàn.

Độ co thể tích cho biết tỉ lệ co rút của một loại gỗ, nhưng nó không thể hiện chiều co rút.

độ-co-ngót -của-gỗ

III. BẢNG SO SÁNH TÍNH CHẤT VẬT LIỆU

GỖ THÔNG
ĐÔNG CANADA
GỖ THÔNG
TÂY CANADA
GỖ THÔNG
PHẦN LAN
GỖ THÔNG
NEW ZEALAND
GỖ CAO SU
LiK Vietnam
Mẫu vân gõgỗ-thông-canada-đôngthông-canada-tâythông-phần-lanthông-newzealandgỗ-cao-su
Tên thông dụngThông trắng Đông MỹThông trắng Tây Mỹ, Thông trắng IdahoThông xứ ScotsThông vàng, Thông Monterey,Thông InsignisGỗ rừng trồng, gỗ cao su
Nơi phổ biếnVùng Đông Bắc Mỹ và các vùng khí hậu đặc trưng phù hợp.Khí hậu vùng núi Tây Bắc MỹChâu Âu và Bắc ÁThông bản địa vùng California và các kiểu khí hậu phía nam khác.Cây bản địa Brazil nhưng được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt đới đặc biệt là Châu Á
Chiều cao cây20-30 m30-46 m20-35 m24-30 m23-30 m
Trọng lượng khô400 kg/m3435 kg/m3550 kg/m3515 kg/ m3595 kg/m3
Độ Cứng1,690 N1,870 N2,420 N3,150 N4,280 N
Độ Bẻ Gãy59.3 MPa66.9 Mpa83.3 MPa79.2 MPa71.9 MPa
Độ Đàn Hồi8.55 GPa10.07 Gpa10.08 GPa10.06 GPa9.07 GPa
Độ chịu lực theo chiều dọc33.1 MPa34.8 Mpa41.5 MPa41.6 MPa42.1 MPa
Độ co rútBán kính: 2.1%, Chiều ngang: 6.1%, Thể tích: 8.2%.Bán kính: 4.1%, Chiều ngang: 7.4%, Thể tích: 11.8%.Bán kính: 5.2%, Chiều ngang: 8.3%, Thể tích: 13.6%.Bán kính: 3.4%, Chiều ngang: 6.7%, Thể tích: 10.7%.Bán kính: 2.3%, Chiều ngang: 5.1%, Thể tích: 7.5%.

 

CHỨNG NHẬN NGUỒN GỖ FSC

Hội đồng Quản lý Rừng (Forest Stewardship Council – FSC) là một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế được thành lập năm 1993 để thúc đẩy việc quản lý có trách nhiệm đối với rừng trên thế giới. FSC thực hiện điều này bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn về các sản phẩm rừng cùng với việc chứng nhận và ghi nhãn là thân thiện với môi trường sinh thái.

Nhiệm vụ của FSC là “Thúc đẩy quản lý rừng có hiệu quả về mặt kinh tế và có lợi ích lâu dài cho xã hội”.Để đạt được điều này, tổ chức đã công bố Chiến lược toàn cầu với năm mục tiêu:

1. Tăng cường quản lý rừng có trách nhiệm trên toàn thế giới.

2. Đảm bảo việc xử lý công bằng đối với những lợi ích của hệ thống FSC.

3. Đảm bảo tính toàn vẹn, độ tin cậy và tính minh bạch của hệ thống FSC.

4. Tạo ra giá trị kinh doanh cho các sản phẩm từ rừng được FSC chứng nhận.

5. Tăng cường mạng lưới toàn cầu để thực hiện các mục tiêu từ 1 đến 4.

Các mục tiêu này đang được thúc đẩy bởi các hoạt động được quản lý và phát triển thông qua 6 lĩnh vực: rừng, chuỗi cung ứng, chính sách xã hội, giám sát và đánh giá, đảm bảo chất lượng và các dịch vụ hệ sinh thái.

 

Nguồn: http://www.likvietnam.vn/vn/blog/tro-thanh-tho-moc/nhung-dac-tinh-cua-go-ma-bat-cu-ai-me-lam-moc-phai-biet

http://www.wood-database.com/

https://us.fsc.org/en-us

http://www.technologystudent.com/

https://www.wikipedia.org/