Enable PHP 5.5 Opcache on Ubuntu 14.04 with Nginx and PHP-FPM

OPcache improves PHP performance by storing precompiled script bytecode in shared memory, thereby removing the need for PHP to load and parse scripts on each request.

Making the switch from APC to Opcache now that it’s standard with Ubuntu 14.04. All the tutorials seemed to be on Apache so thought I’d share what I did. The first change and restarting php I believe is all you need to do while the other changes are for performance and will vary based on your needs. If others have recommendations or additional advice please pipe in!

sudo vim /etc/php5/fpm/php.ini

Change:

;opcache.enable=0 to opcache.enable=1

Change:

;opcache.memory_consumption=64 to opcache.memory_consumption=128

Change:

;opcache.max_accelerated_files=2000 to opcache.max_accelerated_files=4000

Change:

;opcache.revalidate_freq=2 to opcache.revalidate_freq=60

Then restart:

sudo service php5-fpm restart
sudo service nginx restart

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 thẳng thừng chê Mr Đàm, Hà Hồ

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 thẳng thừng chê Mr Đàm, Hà Hồ

Với thâm niên 60 năm trong nghề, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 cho rằng thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay chỉ có giải trí. Ông nói: Việt Nam hiện tại chỉ có giải trí, không có nghệ thuật. Bây giờ, nhạc để xem nhiều hơn là để nghe. Người ta làm giải trí kiếm tiền, coi qua rồi bỏ chứ hiếm người tâm huyết làm nghệ thuật. Điều này khiến tôi buồn lắm vì con đường nghệ thuật của mình không có những người chung chí hướng để làm tốt vai trò nghệ sĩ.
– So với thế hệ trước như ông, giới ca – nhạc sĩ Việt hiện nay có gì khác biệt đáng nói?
– Hồi xưa, người nhạc sĩ viết ca khúc từ những cảm xúc thật của họ, họ viết ra để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cho mọi người chứ họ không viết nhạc để bán. Còn bây giờ, nhạc sĩ viết nhạc theo yêu cầu đơn đặt hàng nên âm nhạc không có hồn, không có cảm xúc thật của người sáng tác.
Ca sĩ bây giờ đa số chỉ chú trọng ăn mặc, make-up cho đẹp và lên sân khấu hát thì sau lưng có một đám múa. Nhưng ít chú trọng đến xúc cảm âm nhạc, không để tâm hồn vào bài hát.
Hồi xưa, có những giọng ca còn để tiếng đến bây giờ như Lệ Thu, Thanh Thúy, Thái Thanh… nhưng bây giờ những ca sĩ hát giọng tốt đếm trên đầu ngón tay, đã vậy lại bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc.
Tôi nói có lẽ sẽ đụng chạm đến những người học thanh nhạc. Người ca sĩ học thanh nhạc hát phải phát âm cho tròn chữ, và cố gắng đưa giọng mình cho tròn trịa, giọng ngân cao vút… nhưng quá mải lo kỹ thuật nên hát không có cảm xúc!

– Thanh Lam, Mỹ Linh giọng hát rất đẹp, cái gì cũng tốt nhưng đều bị vướng kỹ thuật thanh nhạc nên nhiều lúc nhạc cảm không có, tâm hồn bài hát không có. Hồng Nhung hát tốt hơn Mỹ Linh, Mỹ Linh tốt hơn Thanh Lam. – Theo ông, những ca sĩ được phong hàng diva như Hồng Nhung, Thanh Lam, Mỹ Linh, Trần Thu Hà có bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc?

Đơn cử, nghe Thanh Lam hát bài Cô đơn của tôi, tôi buồn lắm! Nó không ra cái cô đơn, thua một ca sĩ nghiệp dư hát vì hát không có hồn dù giọng đẹp thiệt! Thanh Lam hát những bài sâu lắng nhiều khi đóng kịch nhiều hơn là hát. Mà đóng kịch phải như người diễn viên, người ta nhập hồn vào vai diễn đó, ví dụ Kim Cương trong Lá sầu riêng, cô là nhân vật cô gái đau khổ tên Tâm chứ không phải là nghệ sĩ Kim Cương, phải quên Kim Cương đi! Ca sĩ cũng phải hát ‘nhập vai’ như vậy mới ra ca sĩ.
Trần Thu Hà thì khôn hơn, biết cách lợi dụng kỹ thuật để áp dụng. Nhưng mấy người được như Trần Thu Hà? Người nào cũng phô trương, tôi phải hát giọng cao tới nốt đó tôi mới là ca sĩ, còn hát chưa tới thì chưa phải là ca sĩ. Cái đó là sai lầm tai hại vô cùng và không ai chấp nhận.
– Hai nữ ca sĩ đang nổi tiếng nhất trên thị trường hiện nay là Mỹ Tâm và Hồ Ngọc Hà, ông đánh giá tài năng của họ ra sao?
– Mỹ Tâm chỉ hát nhạc Pop bình thường thôi, nhưng được cái là sáng sân khấu, xử lý bài hát chính xác. Mỹ Tâm cũng có những ca khúc hát không tới, gặp bài nào hát tới mới hay, như Cây đàn sinh viên, Ước gì… Mỹ Tâm hát chỉ hợp với tuổi trẻ. Về tính nghệ thuật thì Hồng Nhung, Trần Thu Hà hát xong có để lại ấn tượng, còn Mỹ Tâm chỉ nghe vui mắt, vui tai, nghe qua xong rồi thì thôi, không để lại ấn tượng gì hết.
Mỹ Tâm được cái là may mắn rơi vào đúng thời điểm không có ai cạnh tranh, từ đó nổi tiếng và khi nổi tiếng rồi thì rất khôn khéo đầu tư vào hát, múa, sắc đẹp để giữ vị trí.
Hồ Ngọc Hà hát chỉ nghe chơi thôi! Giọng Hồ Ngọc Hà yếu lắm, khều khào không à! Hồ Ngọc Hà đẹp, có vóc dáng sân khấu, chịu khó múa… cái gì cũng đẹp nhưng giọng hát thì lại không được. Khi diễn tả nội tâm, Hồ Ngọc Hà diễn kịch tính nhưng đóng kịch chứ không thật. Ca sĩ hát phải biến mình thành nhân vật trong ca khúc mới hiểu nỗi đau làm sao. Không lẽ, ngoài đời mình buồn là phải hét, gào thét? Đâu phải vậy!
– Bằng Kiều cũng giọng tốt như Trần Thu Hà nhưng sau này khoe giọng quá, cố hát lên cao vút để không ai bắt chước được. Thành ra, Bằng Kiều hát bài Buồn ơi chào mi của tôi khiến khán giả ở dưới sững sờ luôn! Tính lại thì hiệu quả sân khấu có nhưng tôi mở băng ra nghe thì phải nghe Tuấn Ngọc hay Xuân Phú, Trọng Bắc hát.– Với các giọng ca nam đang nổi tiếng như Bằng Kiều, Đàm Vĩnh Hưng, Quang Dũng… ông đánh giá ra sao?
Quang Dũng hát được vài bài của Trịnh Công Sơn chứ không phải là tất cả. Còn Đàm Vĩnh Hưng chỉ được bề nổi vậy thôi, tôi không cho là ca sĩ đúng nghĩa. Tôi chỉ cho Đàm Vĩnh Hưng là một người hát. Đàm Vĩnh Hưng cố hát nhạc xưa, nhạc vàng mà hát có ra đâu!
Đàm Vĩnh Hưng hát bài Ai đưa em về của tôi, tôi bảo ‘con đừng hát bài của bố nữa, tội nghiệp bố lắm’. Tôi không thích, tôi nói thẳng luôn. Đàm Vĩnh Hưng nói ‘nhưng con thích hát nhạc bố…’, tôi nói ‘nhưng con không nên hát nhạc của bố thì hay hơn’. Thật ra, giọng Đàm Vĩnh Hưng nửa Nam nửa Bắc, cách thức hát cũng không có và lối hát cũng vậy. Hồi xưa, Đàm Vĩnh Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sĩ loại C hát lót chứ không được vào hạng ca sĩ chính của phòng trà đâu!
– Ngoài danh ca Tuấn Ngọc thì những giọng ca nào khiến ông hài lòng nhất?
– Giọng nữ thì tôi thích Ngọc Anh, Hồng Nhung, Ánh Tuyết, Trần Thu Hà… Nguyên Thảo nếu tiếp tục hát như ngày xưa thì rất hay. Ngày xưa, Nguyên Thảo hát cho thỏa đam mê còn sau này, bị gò bó vào kỹ thuật như Mỹ Linh để khoe giọng và vô tình giết chết tình cảm. Vừa rồi làm đĩa than của tôi có 2 bài Nguyên Thảo hát. Cách đây 6 năm, Nguyên Thảo hát Buồn ơi chào mi xuất thần luôn, nhưng giờ Nguyên Thảo để tâm đến kỹ thuật nhiều nên tình cảm không còn, so ra khác hẳn.
Giọng nam thì ngoài Tuấn Ngọc còn có Trọng Bắc, Lê Hiếu… Tuấn Hiệp lúc trước hát tốt, tôi thích nhưng giờ chạy theo hát nhạc vàng bị mất chất.
– Không phải! Nếu đem so sánh Tuấn Ngọc với Đàm Vĩnh Hưng, người ta vẫn thích nghe Tuấn Ngọc hát nhiều hơn, đúng không? Nghe Tuấn Ngọc hát thấy nó khác liền, hát ra là cảm xúc đến với người nghe chứ không phải gắng gượng. Tại vì Tuấn Ngọc đã sống trong bài hát đó, khi hát Tuấn Ngọc để tâm trạng vào bài hát, nói lên tâm trạng của nhiều người. Ví dụ khi mình bị người yêu bỏ, nghe Tuấn Ngọc hát Buồn ơi chào mi, nghe nó đã lắm!– Với những đánh giá này, phải chăng gu thưởng thức âm nhạc bây giờ của khán giả quá khác với ông, bởi đơn cử, Đàm Vĩnh Hưng đang được phong là ‘ông hoàng nhạc Việt’?
Tuấn Ngọc vẫn là giọng ca số một dù tuổi tác, thời gian làm cho giọng của Tuấn Ngọc không còn được đẹp như ngày xưa nữa, nhưng cái xúc cảm vẫn là Tuấn Ngọc và xúc cảm càng ngày càng sâu hơn.
– Vậy theo ông, thị trường nhạc Việt sẽ đi về đâu?
– Đây là vấn đề lớn, cả một thế hệ chứ không phải đơn giản, ăn thua là cách giáo dục của gia đình với con em làm sao. Nếu trong một gia đình chỉ có tối ngày đi kiếm tiền thì tinh thần nghệ thuật của họ chết rồi, bị tiền bạc chi phối hết. Thành ra, họ cũng không chăm sóc con cái, cứ cho tiền là xong. Họ cũng ỷ lại tiền, đưa con vào trường này trường kia, mặc con muốn làm gì thì làm.
Theo tôi, thị trường nhạc Việt vẫn đang nằm yên. Rồi từ từ, nhạc thị trường sẽ rớt dần và tới một giai đoạn nào đó, nghệ thuật sẽ lên ngôi. Nhạc thị trường tự động phát sinh rồi sẽ tự động chết bởi những gì không hay sẽ không tồn tại. Tôi tin tưởng như vậy. Đời tôi không thấy nhưng đời con, đời cháu của tôi sẽ thấy điều này.
– Sau 60 năm cống hiến cho nghệ thuật, điều ông mong muốn nhất là gì?
– Tôi chỉ mong muốn duy nhất là có nhiều nghệ sĩ tử tế và người nghe nhạc tử tế. Tất cả những gì cứ để thử lửa đi, đốt cách mấy thì vàng cũng vẫn là vàng. Mình hãnh diện là người Việt Nam không thua ai hết!
Theo VTC News

Vyatta – How to enable Transparent Proxy

Login to Vyatta and switch to configure mode

configure
 set service webproxy listen-address 192.168.1.2
 set service webproxy  domain-noncache mydomain.vn
 set service webproxy cache-size 20480
 set service webproxy mem-cache-size 1500
 set service webproxy maximum-object-size 40960
 commit
 save
cache-size (MB): Total disk cache size = 20GB
mem-cache-size (MB): Total memory cache size = 1.5GB
maximum-object-size (KB): Maximum size of 1 file = 40MB
configure
 show service webproxy
    cache-size 20480
    domain-noncache mydomain.vn
    listen-address 192.168.1.2 {
    }
    maximum-object-size 40960
    mem-cache-size 1500

Vyatta – How to view configuration

When you log on to the system, the system is in operational mode

  • Operational mode provides access to operational commands for showing and clearing information and enabling or disabling debugging, as well as commands for configuring terminal settings, loading and saving configuration, and restarting the system.
  • Configuration provides access to commands for creating, modifying, deleting, committing and showing configuration information

Operation mode

vyatta@vyatta:~$ <Tab>
 vyatta@vyatta:~$ show <Tab>
 vyatta@vyatta:~$ show wan-load-balance status
 vyatta@vyatta:~$ show version
 vyatta@vyatta:~$ show configuration
 vyatta@vyatta:~$ show interfaces

Configure mode

To enter configuration mode type configure, to exit just type exit in operation mode

vyatta@vyatta:~$ configure
 [edit]
 vyatta@vyatta#
 In configuration mode we can also use show to view configure parameter
 vyatta@vyatta# show interfaces
 vyatta@vyatta# show load-balancing

When we finish our configuration, we have to commit the change before exit. For example: to Enable https Service.

vyatta@vyatta# set service https
 [edit]
 vyatta@vyatta# commit
 vyatta@vyatta# save
 vyatta@vyatta# exit

You will notice that which mode you are in by looking at the symbol $ (operation) or # (configure)

Nhu Đạo

Nhu đạo (Judo) là “đường lối uyển chuyển” và nguyên tắc của nhu đạo là “sức lực ít , hiệu năng nhiều”. Theo định nghĩa của người Nhật ,nhu đạo là nghệ thuật dùng sức nằm gọn trong bí quyết đơn giản “Khi bị đẩy thì kéo, khi bị kéo thì đẩy”. Ta thử tưởng tượng một người khoẻ dùng sức đẩy một người yếu. Thay vì đẩy lại, người yếu lại dùng sức mình kéo luôn đối phương về phía mình, khiến họ mất thăng bằng. Ngay thời điểm này, với một thế căn bản của Judo người yếu quật ngã đối phương dễ dàng. Ðó là phương pháp tự vệ không cần khí giới, dựa trên nguyên tắc đánh bại đối phương bằng cách nhượng bộ và sử dụng chính sức mạnh của đối phương . Võ sinh Judo không tấn công đối phương, chỉ khi nào bị tấn công thì mới phát huy đòn thế.

Judo được giáo sư Jigoro Kano (1860-1938) chính thức sáng lập vào năm 1882 tại Tokyo nhưng mãi đến năm 1886 mới gây được nhiều sự chú ý tại Nhật, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều sự chống đối mạnh mẽ của giới võ thuật tại Nhật lúc bấy giờ.
Nguồn gốc của Judo là nhu thuật (Ju-Jitsu: Ju có nghĩa là Nhu ,còn Jitsu là Nghệ thuật ), một môn võ được phát triển từ những kỹ thuật chiến đấu của các chiến binh.

Theo truyền thuyết, một vị lương y Nhật Bản tên là Akiyama, sau khi đã qua Trung thổ tầm sư học đạo tới mức cao thâm, ông quay về xứ và tu luyện trong đền Dazaifu. Vào một sáng mùa đông, bão tuyết phủ trắng cả cỏ cây vạn vật, một hiện tượng tuy thông thường nhưng làm ông đặc biệt chú ý: Dưới sức nặng của tuyết phủ, cành sồi to lớn tưởng như vững chắc bị gẫy đổ, ngược lại những cây trúc chỉ uốn mình theo sức nặng rồi lại vươn lên tươi tốt sau cơn giống tuyết. Cảnh tượng ấy kích thích trí tưởng tượng của Akiyma. Ông chợt nảy sinh ra ý nghĩ “Hãy lấy sự mềm dẻo đối chọi với cứng rắn. Theo ông càng cứng rắn càng dễ bị gẫy đổ trước sức mạnh, cũng như cành sồi to lớn kia dưới sức mạnh của giông tuyết”.

Ý nghĩ trên trở thành nguyên lý căn bản của Jujitsu do Akiyma khởi xướng. Sau đó theo thời gian, môn Jujitsu phát triển không ngừng và lớp người sau đã sáng tạo thêm nhiều đòn thế hiểm độc dành riêng cho giới quý tộc Nhật bản trong các trận tử chiến. Nhu thuật cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa . Trong nhu thuật có phần”Âm tính” cũng tương tự như “Âm thuật” của Bắc phái Trung Hoa vậy. Nếu phân tích một cách kỷ càng ta thấy: cái Nhu trong Jiu-Jitsu được xây dựng bởi Động (Dương tính) và Tĩnh (Âm tính). Được cấu tạo bằng Âm Dương, nhưng tại sao lại gọi là Nhu (vốn là Âm thuần túy). Nguyên Động và Tĩnh tuy đuợc kể là Âm Dương khác nhau, nhưng sự thật chúng chỉ là hai “động tác” để tạo ra một trong hai thể hoặc Âm hoặc Dương. Động và Tĩnh ra hướng Dương.Tĩnh và Động ra hướng Âm. Bởi vậy ta thấy trong Âm có Dương và trong Dương có Âm . Nói cách khác, trong Nhu có Cương và trong Cương có Nhu. Trong khi dung hợp Động và Tĩnh để tạo thành Nhu thuật , các võ sư đã cố ý bỏ bớt các thế Động (Dương) và nặng nề về Tỉnh (Âm) nên Nhu thuật lại trở về Âm là như thế.

Sau nhiều năm dày công nghiên cứu sữa đổi, giáo sư Jigoro Kano tổng hợp lại tất cả tuyệt kỹ lấy từ nhiều hệ phái khác nhau của Ju-Jitsu, Ông lại bỏ bớt những động tác mạnh bạo trong môn Nhu thuật quay về Thuần Nhu để biến chế thành môn Nhu Đạo ,nhằm giúp phụ nữ rèn luyện tinh thần, thể chất, tự vệ và chiến đấu… Môn võ này đã được sự cho phép cũng như khuyến khích của nhiều vị võ sư Ju-Jitsu có tư tưởng khoán đạt và cách nhìn cỡi mở hơn so với các đồng môn khác trong giới võ thuật Nhật Bản thời bấy giờ. Sang thập niên 1940, Judo không còn là môn võ dành riêng cho phụ nữ nữa, mà trở thành một môn võ chung được yêu thích cho cả hai phái nam và nữ .

Nhu đạo được thiết lập trên hai nguyên tắc :

Nguyên tắc thứ nhất :Vô vi

Vô vi trong nhu đạo có thể được giải thích bằng cách so sánh với một thanh gỗ quay chung quanh một cái trục, dù ta đánh vào bất cứ đầu nào thanh gỗ cũng quay và vẫn giữ được thăng bằng. Cách duy nhất làm cho nó mất thăng bằng là đánh ngay vào điểm giữa. Nhưng nếu một thanh gỗ có thể chuyển động tự do, nên có thể di chuyển trung tâm của nó ra khỏi quỷ đạo của sức mạnh đang tấn công. Khi ấy dù ta có đánh vào nó bao nhiêu, nó cũng chỉ xê dịch trung tâm ra khỏi quỷ đạo trực tiếp của những cú đánh, và thế là nó đã làm cho sự yếu đuối của nó trở thành sức mạnh của nó. Trong trường hợp thân thể con người, trung tâm điểm của sự thăng bằng nằm ở rốn, bất cứ sự tấn công nào ở trên điểm ấy đều bị vô hiệu hóa bằng cách uốn cong mình ra xa, trong khi sự tấn công ở bên hông được né tránh bằng cách bứt nhẹ ra khỏi quỷ đạo trực tiếp, để cho cú đánh lướt vào hư không. Nhưng thân thể con người khác thanh gỗ ở chỗ con người phải đứng trên đất, do vậy, một sự tấn công ở dưới điểm cân bằng luôn luôn thành công nếu cả hai chân (của người chống trả) không được đặt vững chắc trên mặt đất. Bởi thế, cặp giò cần phải cong xuống và bất cứ ai rành nhu đạo đều có thể giữ vị trí ấy rất lâu. Sự tấn công trong nhu đạo được thực hiện bằng cách khống chế đối phương cho đến khi họ mất thăng bằng, điều này có thể xảy ra theo hai cách. Hoặc anh ta vấp, khiến thân thể không còn được giữ thăng bằng bởi hai bàn chân, và trong khi vấp anh ta có thể bị quật ngã dễ dàng với một cú đánh bên hông hoặc nơi mắt cá. Hoặc anh ta tự làm cho mình mất thăng bằng khi chuyển từ thế thủ sang thế công. Ðối thủ chỉ cần xoay mình một cái, khiến cho sức mạnh của sự tấn công dội ngược lại trên người tấn công, vì không gặp sự chống trả. Khi ấy, đối thủ chỉ cần kéo về mình cái chân đang tấn công mình, hoặc đẩy thân thể của người tấn công làm cho anh ta mất thăng bằng, anh ta sẽ té như một cái cây bị ngã.

Bởi thế, người càng dùng sức mạnh để đánh bại một võ sinh nhu đạo, thì càng dễ bị thương tích. Chuyện ấy giống như khi ta dùng hết sức bình sinh để tông vào cánh cửa đóng mà bên trong không cài then; nó sẽ mở toang ra làm cho ta ngã chúi. Võ sinh nhu đạo được ví như chính sự sống: khi ta cố bắt lấy anh ta hay đánh ngã anh ta để anh ta không còn sức khống chế mình nữa, thì anh ta đã không còn ở đấy. Càng vật lộn gắt gao, càng đánh mạnh thì anh ta tuột mất càng nhanh tương ứng với sự nhanh mạnh của chính ta.

Nguyên tắc thứ hai : Sự chớp nhoáng giữa tấn công và chống trả
Nhu đạo không thể thành công nếu có một khoảng cách dù rất ngắn giữa hai động tác. Nếu ta dừng lại chỉ trong một giây, để nghĩ ra một động tác chống trả, thì đối phương đã có thì giờ để lấy lại thăng bằng. Ðiều cốt yếu trong nhu đạo là không có một cái gì để có thể bị đánh vào. Võ sinh nhu đạo phải chớp nhoáng như chân lý thiền, phải biến mình thành một công án, một nan đề, nó biến mất càng nhanh khi người ta cố giải quyết nó. Võ sinh nhu đạo phải giống như nước lọt qua kẽ tay những người muốn giữ nó lại. Nước không do dự trước khi nó nhượng bộ, vì ngay lúc những nắm tay ta bắt đầu nắm lại để giữ nước, thì nước cũng tuột đi không phải bằng sức mạnh của riêng nó mà bằng chính cái áp lực đè nén của bàn tay muốn giữ nó. Bởi thế, trong nhu đạo, sự tấn công và chống trả chỉ là một. Không có nỗ lực, kháng cự, do dự cho đến khi một trong hai người bị quật ngã vì đối thủ đã đi một nước sai lầm bằng cách chuyển sang thế tấn công, để võ sinh nhu đạo có dịp quật anh ta mất thăng bằng với chính năng lực của anh ta, bằng một cái đẩy thêm gia tốc từ đằng sau tới.

Tóm lại, căn bản của nhu đạo vẫn là tư tưởng thiền . Trái ngược hẳn vẻ an tĩnh của trà đạo , thiền trở nên mạnh mẽ như bão tố khi được diễn tả qua nhu đạo mặc dù vẫn có một sự an tĩnh bên dưới như một tảng đá rắn chắc. Nhu đạo nghĩa đen có nghĩa là nghệ thuật mềm mại nhưng thật sự nhu đạo là kỹ thuật khóa cạnh, bóp cổ… Nguồn gốc nhu đạo được tìm thấy trong triết lý vô vi . Lão Tử nói: “Con người khi sinh thì mềm, khi chết thì cứng. Như vậy cứng mạnh là hướng về cái chết, mềm yếu đi đôi với sự sống” . Ðiều quan trọng nhất là con người phải có một thái độ tinh thần được gọi là trí tuệ bất động… Bất động không có nghĩa là cứng cỏi nặng nề, như tảng đá hay khúc gỗ. Nó có nghĩa là sự di động cao độ với một trọng tâm đứng yên. Tâm thức đạt đến cao độ của sự linh mẫn, sẵn sàng hướng sự chú ý đến bất cứ chỗ nào cần. Nhưng có một cái gì bất động bên trong sự chuyển động tự nhiên cùng với vạn vật. “Người đi giỏi không để dấu chân, người nói giỏi không gây lầm lỗi”. Vì người đi giỏi chỉ sử dụng đúng năng lực cần thiết để bước, không để dấu vết vì đi nhẹ nhàng không tung bụi. Lão Trang cho rằng nếu một người đi làm tung bụi lên thì đấy là dấu hiệu anh ta đang phung phí năng lực. Nguyên tắc căn bản trong bất cứ hình thức hoạt động nào, ấy là sử dụng vừa đúng năng lực cần thiết để hoàn thành một hoạt động ấy. Thường thường người ta ưa làm cho đời sống của mình khó khăn vất vả một cách không cần thiết, phí phạm rất nhiều năng lực trong mọi việc làm. Chỉ vì một phần nhỏ năng lực ấy thật sự được dùng cho công việc, còn thường thì nó bị phung phí ra chung quanh trong khi chỉ cần tập trung vào một điểm. Cả Thiền lẫn Lão Trang đều nắm lấy sự việc ngay khi nó đến, hoàn thành nó rồi bước sang công việc kế tiếp, tránh sự chạy qua lại vô ích, sự lo lắng về quá khứ vị lai làm cho hoạt động thất bại. Như vậy, sự tiết kiệm năng lực trong Lão Trang chính là nguyên tắc “bước tới” của Thiền .